Thứ Năm, 26 tháng 9, 2019

Kinh tế Việt Nam có suy thoái theo sự nhận định của “chuyên gia” nước ngoài?


Mới đây, một vài người được gắn mác “chuyên gia” đăng đàn ở một cơ quan truyền thông nước ngoài với cách đưa thông tin sai trái, phiến diện, thiếu thiện chí về Việt Nam, nhận định rằng: Nền kinh tế Việt Nam đã suy thoái năm thứ 10 liên tiếp.
Rằng đang có một làn sóng tháo chạy khỏi nền kinh tế Việt Nam: Nhà đầu tư nước ngoài bỏ đi, người dân thì chuyển hết tiền ra nước ngoài. Các “chuyên gia” trên cho rằng, lý do là vì nhà đầu tư nước ngoài và người dân đã mất hết niềm tin vào nền kinh tế Việt Nam. Từ đó họ hù dọa: Việt Nam sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, siêu lạm phát và vỡ nợ... Nực cười thay, những nhận định nêu trên trái ngược hoàn toàn với thực tế đất nước và những dự báo lạc quan của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tổ chức nghiên cứu thị trường, các tờ báo uy tín trên thế giới đánh giá về kinh tế Việt Nam.      

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2019

“Lá phiếu tín nhiệm” - giữ nguyên giá trị trước lời lẽ xuyên tạc


Theo kế hoạch, ngày mai (25-12), Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa XII sẽ khai mạc tại Hà Nội. Một trong những nội dung quan trọng của hội nghị lần này là BCH Trung ương tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư khóa XII.
Đây là việc làm cần thiết nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đồng thời góp phần đánh giá thực chất chất lượng, hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng.
Theo Quy định số 262-QĐ/TW ngày 8-10-2014 của BCH Trung ương Đảng khóa XI “Về việc lấy phiếu tín nhiệm với các thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội”, việc lấy phiếu tín nhiệm được tiến hành định kỳ vào năm thứ ba là năm giữa nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp. Theo kế hoạch, tại hội nghị lần này, BCH Trung ương Đảng sẽ tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư. Đây là công việc bình thường của Đảng nhằm thu thập thông tin, nhận định, đánh giá khách quan phẩm chất, năng lực và chất lượng, hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng.
Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp cao của Đảng luôn nhận được sự quan tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân và dư luận xã hội. Tuy nhiên, đón trước sự kiện này, một số người đã tỏ ra “quan tâm thái quá”, “lo lắng trên mức bình thường”; có người “cầm đèn chạy trước ô tô” bày tỏ sự hoài nghi, đoán già đoán non rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm của Trung ương Đảng chỉ là hình thức, "vuốt ve" nhau (!). Có người còn cực đoan nhìn nhận, việc đánh giá mức độ tín nhiệm thông qua 3 mức độ là “tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp” không những không đánh giá đúng thực chất đối tượng được đánh giá, mà còn “đánh đồng” giữa những người có tín nhiệm cao và tín nhiệm thấp (!). Trắng trợn hơn, có kẻ cơ hội chính trị xuyên tạc rằng, đối với một chế độ cộng sản độc tài thì việc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng chỉ là một cách “che mắt, đánh lừa dư luận” về dân chủ trong Đảng (!); thậm chí còn rêu rao, sau những cuộc đấu tranh, thanh trừng giữa các phe phái trong Đảng, những phiếu tín nhiệm cao sẽ thuộc về phe bảo thủ tạm thời thắng thế trên đấu trường chính trị (!).
Thành ngữ có câu “Nghe hơi nồi chõ” với hàm ý phê phán những kẻ hay hóng hớt, thích “chõ mũi” vào câu chuyện người khác, dù chưa biết thực hư ra sao nhưng vẫn phỏng đoán lung tung, bàn ra tán vào không có cơ sở. Cũng có câu thành ngữ “Thầy bói xem voi” với ý chê bai những kẻ xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng theo cảm tính chủ quan, phiến diện, một chiều, chỉ nhìn thấy hiện tượng đơn lẻ mà không thấy bản chất cũng như tính khách quan, toàn diện, thấu đáo của vấn đề trên mọi khía cạnh. Khi Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa XII chưa diễn ra, mà những “kẻ ngoài lề” vẫn tùy tiện nhận định việc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng như vậy cũng chẳng khác nào “nghe hơi nồi chõ” và “thầy bói xem voi”!
     Việc lấy phiếu tín nhiệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là việc làm cần thiết, được thực hiện dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch. Thông qua lá phiếu tín nhiệm nhằm giúp cấp ủy có một kênh thông tin tham khảo quan trọng, làm cơ sở cho việc đánh giá chính xác, bố trí sử dụng đúng cán bộ. Việc xác định 3 mức độ “tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp” trong quy trình lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo không phải là hình thức “cào bằng” khi xem xét, nhận định mức độ hoàn thành cương vị chức trách của cán bộ như có người suy nghĩ phiến diện, mà chủ yếu nhằm tiếp cận, đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và chất lượng, hiệu quả công tác của người được lấy phiếu tín nhiệm. Hơn nữa, việc xác định 3 mức độ tín nhiệm này nhằm bảo đảm cho việc lấy phiếu tín nhiệm được khách quan hơn, thận trọng hơn, thấu đáo hơn, tránh hiện tượng cảm tính mà người bỏ phiếu dễ nhận định, đánh giá chưa đúng mực, chuẩn xác về cán bộ được lấy phiếu tín nhiệm.
Quy định số 262-QĐ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ: Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo dựa trên hai tiêu chí căn bản là phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực thực tiễn. Vì vậy, những cán bộ nào có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, trách nhiệm cao trong công tác, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, có đức tính trung thực, công tâm, liêm khiết, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, bản thân và gia đình gương mẫu về đạo đức, lối sống, có uy tín trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được phân công và góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương mình phụ trách ngày càng vững mạnh, phát triển thì chắc chắn nhận được nhiều số phiếu ủng hộ, tín nhiệm cao.  
Đảng ta đã có kinh nghiệm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư tại Hội nghị lần thứ 10 BCH Trung ương Đảng khóa XI. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được từ lần lấy phiếu tín nhiệm đầu tiên, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng và khẳng định rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư lần này sẽ được BCH Trung ương thực hiện dân chủ, khách quan, công tâm, minh bạch, bảo đảm đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Với truyền thống đoàn kết và trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, đợt lấy phiếu tín nhiệm lần này đối với các chức danh lãnh đạo cấp cao của Đảng sẽ được tiến hành bài bản, chu đáo, thận trọng, nghiêm túc. Động thái này thêm một lần khẳng định Đảng ta nói chung, mỗi cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng nói riêng luôn có ý thức, tinh thần cầu thị, tôn trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng và nhân dân. Những thông số của mỗi lá phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo cấp cao của Đảng là tiền đề, cơ sở để mỗi cán bộ được lấy phiếu tín nhiệm tiếp tục rèn luyện, phấn đấu, không ngừng hoàn thiện phẩm chất nhân cách và nâng cao năng lực công tác, thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn cương vị, trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019

“Phong sát” - chiêu bài đánh vào giá trị kinh tế đáng sợ của Trung Quốc

Nhiều sao Hoa ngữ đang rút chân khỏi các nhãn hàng quốc tế như Coach, Versace, Balenciaga hay Givenchy để bảo vệ hình tượng trước sự kiện"phong sát" hàng loạt của người dân Trung Quốc. Có vẻ như điều này đã khiến các nhà mốt quốc tế lo sợ sẽ bị "mất" thị trường tỷ dân vĩnh viễn? theo đồn đoán của giới mộ điệu thì rất có thể vì Hermes nhận ra Trung Quốc là một thị trường tiềm năng nên việc bán túi in hình quốc kỳ nước này chính là một cách "nịnh ngầm" các tín đồ thời trang xứ Trung.
Trang web trực tuyến bán chiếc túi là Moda Operandi. Nếu đúng là hàng Birkin, item này cũng là sản phẩm từ xưởng da thuộc hàng đầu thế giới của Hermès. Chiếc túi da cá sấu có giá 125.000 USD với thiết kế giống hình cờ Trung Quốc vừa được rao bán rộng rãi trên mạng.

Quyền được thông tin của người dân luôn được Việt Nam coi trọng


Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng, bởi đây là một trong những quyền cơ bản của con người.
Thế nhưng thời gian vừa qua, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình bóp méo, xuyên tạc sự thật về việc thực hiện các quyền dân sự, chính trị nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng ở Việt Nam. Trên một số trang mạng thiếu thiện chí có kẻ cho rằng Việt Nam "bóp nghẹt", "bưng bít" thông tin; “cản trở các quyền tự do biểu đạt, chính kiến và ngôn luận"... của người dân. Thậm chí trên trang mạng của RFA còn hồ đồ phán rằng: “bưng bít thông tin là nguyên tắc của Chính phủ Việt Nam...”.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2019

Đi lên xã hội chủ nghĩa là con đường dài hơi nhưng đúng đắn của dân tộc ta


Lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ 20 cho thấy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là một thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta-thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ.
Chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) đã kế thừa truyền thống lịch sử của dân tộc, đồng thời còn kế thừa, phát triển những tư tưởng tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ năm 1776 và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp năm 1789. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng tiến bộ đó thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng chế độ xã hội dân chủ, cộng hòa theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945.
Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu có ý nghĩa thời đại. Đó là thắng lợi của kháng chiến chống thực dân, đế quốc bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; vượt qua cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống của chủ nghĩa xã hội (CNXH) những năm 1985-1991, tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986) thắng lợi.
Thế nhưng, lợi dụng internet, mạng xã hội, có kẻ đã tung ra thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bôi nhọ CNXH và chế độ xã hội XHCN nói chung, chế độ xã hội và Nhà nước ta nói riêng. Trên BBC gần đây có kẻ viết rằng: “Gần như ở nơi nào mà CNXH đã được thử nghiệm, chúng cũng gây ra đau khổ, tham nhũng và mục nát”. Có người cho rằng trên thế giới, học thuyết Mác-Lênin đã lỗi thời; rằng “Việt Nam nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin” vì lý luận đó “đã cản trở con đường tiến lên văn minh hiện đại trong hòa bình của Việt Nam”. Có người thì “kiến nghị” Đảng nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, chuyển sang “tư tưởng dân tộc, dân chủ”. 
Vậy quan điểm cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam cần từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường XHCN sai lầm ở đâu? Vì sao Việt Nam khẳng định: Con đường phát triển của dân tộc ta chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo?
1- Kinh nghiệm lịch sử thế kỷ 20 đã chỉ ra rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và phát triển đất nước-hội nhập quốc tế duy nhất đúng đắn của nhân dân Việt Nam.
Còn nhớ trong thế kỷ 19 và 20, lực lượng chính trị cực hữu ở các quốc gia phát triển đương thời, trong đó có Pháp, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đến Việt Nam dưới khẩu hiệu “khai hóa”, nhưng thực chất đó là những cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo. Khi đánh bại lực lượng phong kiến Việt Nam, thực dân Pháp áp đặt chế độ thuộc địa, đồng thời duy trì chế độ phong kiến, đẳng cấp, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận xương tận tủy.
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 là một ví dụ. Chỉ tính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ (với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình) nạn đói đã làm chết hơn 2 triệu người, chiếm gần 10% dân số Việt Nam khi đó. Theo con số ghi chép từ công trình nghiên cứu “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam-những chứng tích lịch sử” của GS Văn Tạo và GS Furuta Moto (Nhật Bản): “Nhiều làng xã chết từ 50% đến 80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai. Làng Sơn Thọ, xã Thái Thượng, huyện Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người”[1].
Nối tiếp cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh mang tính hủy diệt đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời sử dụng chủ nghĩa thực dân mới: Xây dựng chính quyền tay sai nhằm thống trị và chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Còn nhớ ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của chúng đã gây ra bao nhiêu vụ thảm sát. Không kể chế độ khắc nghiệt, tù nhân phải ăn gạo mục, cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… nhiều tù nhân cốt cán phải nằm xà lim, chuồng cọp, thường xuyên bị tra tấn dã man… 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các dân tộc trên thế giới, bao gồm cả nhân dân tiến bộ Pháp, Mỹ… đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hơn 30 năm qua (từ năm 1986 đến nay) do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại những thành tựu có ý nghĩa thời đại. Từ một nước nghèo, trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị cấm vận, cho đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình, trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bình đẳng với nhiều nước lớn, trong đó có Nga, Trung Quốc (đối tác chiến lược toàn diện) và Hoa Kỳ (đối tác toàn diện).
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thập niên 30 của thế kỷ 20 đến nay chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Tư tưởng xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn liền độc lập dân tộc với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng năm 1930 xác định: Tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2].
Cương lĩnh năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Đại hội lần thứ XII (năm 2016) của Đảng đã xác định mục tiêu của dân tộc Việt Nam là: Xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện… có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
2- Để tiến đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, con đường duy nhất của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính tất yếu của con đường XHCN của dân tộc Việt Nam trước hết bắt nguồn từ lịch sử, từ sự lựa chọn của nhân dân. Ngày nay, trên thế giới có nhiều mô hình xã hội với nhiều chế độ xã hội khác nhau. Mỗi quốc gia, dân tộc lựa chọn mô hình nào đó đều dựa trên những điều kiện lịch sử của dân tộc mình, đồng thời tùy theo thể chế xã hội và do đảng chính trị cầm quyền lãnh đạo thực hiện. Không ít nhà nước trên thế giới ngày nay là nhà nước “cộng hòa”, “cộng hòa dân chủ nhân dân"; “cộng hòa nhân dân”; “cộng hòa-tổng thống"; "cộng hòa đại nghị"; nhà nước tôn giáo (Vatican). Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và luật pháp các quốc gia đều tôn trọng sự lựa chọn chế độ xã hội và nhà nước của các dân tộc.
Một số người lợi dụng internet, mạng xã hội tán phát quan điểm xuyên tạc, phủ nhận xã hội XHCN nói chung, phủ nhận con đường XHCN của dân tộc Việt Nam là vô căn cứ. Họ chỉ dựa vào tên gọi, hoặc tư tưởng chính trị theo quan điểm giáo điều hoặc những mặt tiêu cực nào đó của xã hội để đánh giá nước này là “văn minh”, nước kia là “lạc hậu”. Đó chỉ là những thủ đoạn chính trị cổ hủ, vô căn cứ.
Tư tưởng về cách mạng xã hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản, trong đó “sự tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) do Mác và Ăngghen sáng tạo trước khi có cách mạng XHCN. Lênin và Đảng Cộng sản Nga (sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô) đã vận dụng, phát triển lý luận đó, lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười đưa đến sự ra đời nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, đồng thời mở ra hệ thống XHCN, phá thế độc quyền của tư bản chủ nghĩa (TBCN) thế giới. Cho dù thế giới ngày nay đã có những thay đổi lớn lao nhưng không thể phủ nhận được những sự kiện lịch sử mang tính thời đại này.
Ở Việt Nam, đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết này phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng. Cuộc Cách mạng Tháng Tám không phải là một cuộc cách mạng vô sản như ở nước Nga (năm 1917), mà là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo Chủ nghĩa Lênin, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Nhà nước mới, sau cách mạng cũng không phải theo mô hình nhà nước Xô-viết, mà là nhà nước “dân chủ, cộng hòa” do nhân dân làm chủ, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hướng tới xã hội XHCN.
Chế độ xã hội ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã trải qua hai mô hình xã hội với những thể chế và chính sách khác nhau. Mô hình trước đổi mới (1976-1986) là “Chế độ làm chủ tập thể XHCN”[3]. Về chính trị, đó là chế độ xã hội dựa trên nhà nước, thực sự của dân, do dân, vì dân… dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về kinh tế, đó là chủ trương “xóa bỏ chế độ sở hữu TBCN… xác lập chế độ sở hữu XHCN dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” bằng những phương pháp và bước đi thích hợp.
Mô hình xã hội XHCN trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) là sự phát triển sáng tạo chế độ xã hội XHCN, đồng thời khắc phục những sai lầm nhận thức về CNXH. Mô hình đó, về chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về kinh tế, đó là kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Về quan hệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng.
Cần phải khẳng định, Việt Nam đi theo con đường XHCN là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay. Chế độ dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân tộc Việt Nam ngày nay là sự kế thừa và phát triển lịch sử dân tộc. Về mặt lý luận, chế độ Việt Nam nằm trong hình thái quá độ từ CNTB lên CNXH, mở đầu từ sự ra đời của Nhà nước Xô-viết. Sự ra đời của hệ thống XHCN và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc (từ thập niên 1960) đã xác nhận tính chất đúng đắn của lý luận đó. Còn nhớ, sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng trăm quốc gia, dân tộc, nơi các đảng chính trị theo chủ nghĩa yêu nước, Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có nhiều đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân lao động đứng lên lật đổ chế độ thuộc địa, giành được độc lập dân tộc, trong đó có nhân dân Việt Nam. Do nhiều nhân tố, trong đó có tác động của hệ thống XHCN, ở các nước TBCN đã hình thành phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, tạo ra sự biến đổi những cơ chế, chính sách ít nhiều dung hòa lợi ích giữa giới chủ với người lao động. Điển hình cho phong trào này là kết quả đạt được giữa giới chủ với các tổ chức công đoàn ở các nước Bắc Âu, do các đảng dân chủ XHCN (còn gọi là các đảng xã hội dân chủ) lãnh đạo.
Thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay khác với thể chế “Nhà nước chuyên chính vô sản” (trong thời kỳ trước đổi mới), đó là Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện toàn diện những bước phát triển về tư tưởng chính trị và pháp lý của Nhà nước Việt Nam.
Về chế độ xã hội, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. (Điều 2).
Về vai trò và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều 4 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Về quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày nay là rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng, dựa trên các nguyên tắc-đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Tóm lại, đó là đường lối đối ngoại: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa…; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng).
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên đã dành cả một chương để quy định về quyền con người trên tất cả các nhóm quyền, từ quyền dân sự, chính trị đến các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Những quy định này hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc.
Đảng và Nhà nước Việt Nam không phủ nhận những mặt tiêu cực đang tồn tại trong xã hội. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam công khai hóa, đồng thời đang triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng một cách có bài bản và quyết liệt. Các nghị quyết Đại hội XI, XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII cho thấy rõ quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh này như thế nào. Trong những năm gần đây, không ít cán bộ có chức, có quyền ở cả cấp cao, lực lượng vũ trang đã bị xử lý kỷ luật Đảng và xử lý hình sự.
Tại Hội nghị Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, chiều 27-4-2018 ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và “làm đến cùng”[4]. Gần đây, ngày 1-8-2018, trong buổi làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn lưu ý: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, lãng phí, phòng, chống tiêu cực, chúng ta thường nói nhiều đến công tác cán bộ… “nhưng điều cốt yếu là gì? Đó là sự kiên định đi lên CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Lịch sử thế kỷ 20 cho thấy: Không có lực lượng chính trị nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có Cương lĩnh xác định mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; không có lực lượng chính trị nào có lý luận cách mạng khoa học sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp với xu thế của thời đại; có hệ thống tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và sẵn sàng hy sinh như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy có thể nói, sự phát triển của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là đi theo con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Công tác nhân quyền tại Việt Nam ngày càng gặt hái nhiều thành công


Thời đại ngày nay, xét từ giác độ khoa học-công nghệ (KH&CN) là thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Cuộc cách mạng này hội tụ nhiều công nghệ, như trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối-Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data), tất cả đều dựa trên công nghệ thông tin (CNTT).
Với những công nghệ đó một thế giới mới, khác biệt với thế giới mà con người đang sống đã ra đời-đó là thế giới ảo, thế giới dựa trên kỹ thuật số, trên internet, mạng điện tử. Có thể nói, trong thời đại CMCN 4.0 đi đôi với cơ hội, nhân loại cũng phải đối diện với những thách thức mới-một trong những thách thức đó là phân biệt đâu là thực, đâu là ảo, đâu là giả. 

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2019

Tự do hội họp không thể bị lợi dụng để chống phá Việt Nam


Quyền tự do hội họp là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, những năm qua, lợi dụng các sự kiện chính trị, xã hội phức tạp, nhạy cảm, các nhà đấu tranh khoác áo “dân chủ, nhân quyền” triệt để lợi dụng quyền này để xuyên tạc, kích động người dân biểu tình, bạo loạn nhằm tập dượt “cách mạng màu” chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Theo "Từ điển tiếng Việt", “hội họp” là “tề tựu đông đảo”, là “tập họp ở một nơi để bàn bạc”. Quyền tự do hội họp là một quyền cơ bản của con người được gặp gỡ, họp mặt để trao đổi, giao lưu, bàn công việc… Việc hội họp có thể mang tính chất gia đình, bạn bè; có thể là sinh hoạt của các tôn giáo, hoạt động của các hội đoàn để thảo luận, giải quyết công việc nội bộ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Đó cũng là quyền của công dân được gặp gỡ để thảo luận, góp ý kiến về các vấn đề chung của Nhà nước và xã hội.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019

Tường rào biên giới Việt - Trung nói lên điều gì?

Thời gian gần đây rộ lên thông tin về bức tường biên giới Việt - Trung, cho rằng "Trung Quốc xây dựng lên bức tường nhằm cô lập Việt Nam, Trung Quốc muốn đóng biên giới với Việt Nam để chuẩn bị mật ước thành đô 2020"... và bức tường này được so sánh với "Tường Biên Giới giữa Hoa Kỳ và Mexico".
Tuy nhiên, trên thực tế thì vấn đề lại hoàn toàn khác.

Chống tham nhũng đang bị lợi dụng xuyên tạc thành đấu đá nội bộ

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Không phải đến bây giờ mà cuộc đấu tranh PCTN đã được tiến hành ở Việt Nam kể từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam năm 1930 cho đến nay...
Có thể nói, chưa bao giờ công tác đấu tranh PCTN lại được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt như thời gian gần đây. Giữa lúc quyết tâm chính trị, tinh thần đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang lên cao thì các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội lại ra sức lợi dụng vấn đề này để tiến hành các hoạt động chống phá. Hơn lúc nào hết, trách nhiệm của mỗi chúng ta là phải nhận thức rõ ràng, đấu tranh kiên quyết với những âm mưu, thủ đoạn đó.
Những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn
Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị thường xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, trong đó tham nhũng là vấn đề được chúng triệt để lợi dụng. Cả thế giới đã thừa nhận, tham nhũng là tệ nạn mang tính toàn cầu, tham nhũng xuất hiện và tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới, các nước dù đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) hay tư bản chủ nghĩa đều phải đối mặt với tệ nạn này, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái nào nắm quyền lãnh đạo đất nước... Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động lại ra sức rêu rao rằng: “Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”; “do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra...”; “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”... Không chỉ vậy, họ còn cho rằng: Tham nhũng chỉ xuất hiện ở những nước đi theo con đường XHCN, “tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam”... Thực chất của giọng điệu ấy không gì khác là lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu hòng làm suy giảm uy tín tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Khi mà chúng ta chưa đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng hoặc đã làm nhưng kết quả chưa rõ nét thì họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng cũng tham nhũng, suy thoái”... Khi Đảng và Nhà nước ta thể hiện quyết tâm chính trị, đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, kiên quyết xử lý hàng loạt cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực thì chúng lại tung ra những giọng điệu lạc lõng, dựng chuyện, xuyên tạc rằng thực chất cuộc đấu tranh PCTN ở Việt Nam hiện nay là “cuộc chiến thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng”, "là sự đấu đá nội bộ, phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam". Đề cập đến câu hỏi làm thế nào để dẹp bỏ nạn tham nhũng ở Việt Nam, họ cho rằng: “Chỉ khi nào ở Việt Nam có chế độ đa đảng thì nạn tham nhũng mới có thể dẹp bỏ được”... Từ những thông tin cóp nhặt trên mạng xã hội, họ còn vẽ ra, dựng nên những câu chuyện nói rằng các phe nhóm nội bộ ở Trung ương và địa phương đang đấu đá nhau... Đặc biệt, họ thường suy diễn, chụp mũ, xuyên tạc những ý kiến chỉ đạo chống tham nhũng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước... Những giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là xuyên tạc mục đích, ý nghĩa tốt đẹp của cuộc đấu tranh này; bôi nhọ, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; chia rẽ nội bộ ta, gây phân tâm trong xã hội, làm giảm sút ý chí, quyết tâm PCTN và lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Kết quả của công tác chống tham nhũng là không thể phủ nhận
Cần khẳng định rõ rằng những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, tinh vi, những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt lạc lõng ấy không thể phủ nhận được sự cố gắng, quyết tâm chính trị và những thành quả trong cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong 5 năm gần đây, đặc biệt là những năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, công tác PCTN được Đảng, Nhà nước ta chỉ đạo rất quyết liệt, tạo được một bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội. Nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng và cố ý làm trái. Tòa án nhân dân các cấp cũng đã xét xử sơ thẩm 436 vụ án, với 1.118 bị cáo về các tội tham nhũng. Các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng đã được Thanh tra Chính phủ tập trung thanh tra, kiểm tra. Qua đó, đã chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 188 vụ với 335 đối tượng. Kiểm toán Nhà nước cũng đã kiểm toán 434 đơn vị đầu mối, kiến nghị thu hồi về cho ngân sách Nhà nước hơn 65.000 tỷ đồng.
Các cơ quan chức năng đã chủ động, công khai cung cấp thông tin, định hướng dư luận trong hoạt động PCTN, phát huy vai trò tích cực của các cơ quan truyền thông, báo chí trong PCTN. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội và người dân trong PCTN ngày càng được phát huy tốt hơn... Hoạt động hợp tác quốc tế về PCTN được mở rộng. Kết quả công tác PCTN của Việt Nam những năm gần đây đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận có nhiều chuyển biến tích cực. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam tăng liên tiếp trong hai năm sau nhiều năm giữ nguyên, từ 31 điểm năm 2015 tăng lên 35 điểm trong năm 2017.
Ngoài việc góp phần tạo ra bước phát triển về kinh tế-xã hội, công tác đấu tranh PCTN góp phần tăng cường, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, vào chế độ XHCN. Kết quả của công tác PCTN đã tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Những kết quả ấy càng khẳng định rõ quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về PCTN. Đồng thời đó cũng là minh chứng để khẳng định rõ việc đẩy mạnh PCTN, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm không làm hạn chế sức sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của những người tâm huyết, vì sự nghiệp đổi mới của Đảng, với động cơ trong sáng, lành mạnh, không “làm chậm” sự phát triển, mà ngược lại làm trong sạch, tạo sức mạnh thật sự của bộ máy và đội ngũ cán bộ, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đó càng chứng tỏ những luận điệu của các thế lực phản động về cuộc đấu tranh PCTN của Việt Nam là xuyên tạc, bịa đặt, vô căn cứ.
Không thế lực nào có thể làm nhụt ý chí của chúng ta
Thực tế đã khẳng định cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là trong sáng, công khai, minh bạch, khách quan, tôn trọng nhân dân và coi trọng dư luận; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Những kết quả bước đầu đã để lại cho chúng ta những bài học quan trọng. Nhưng cần đặc biệt nhấn mạnh, đó là sự thống nhất một ý chí, một quyết tâm chống tham nhũng trong toàn Đảng. Chính quyết tâm chính trị của Đảng là lời hiệu triệu lòng dân và những cán bộ, đảng viên đồng lòng trong cuộc chiến này. Kết quả của cuộc đấu tranh PCTN thời gian qua cho thấy quần chúng nhân dân và toàn xã hội đã đặt trọn niềm tin, tích cực ủng hộ ý chí quyết tâm, nỗ lực đấu tranh PCTN của Đảng... Nhưng cũng cần phải thấy ngay rằng những kết quả quan trọng đạt được mới chỉ là bước đầu. Tình hình tham nhũng, tiêu cực và tệ quan liêu, lãng phí vẫn còn nhiều, phổ biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh sự vào cuộc quyết liệt của nhiều cơ quan, tổ chức, lực lượng, đơn vị, địa phương thì ở đâu đó vẫn còn những biểu hiện thiếu kiên quyết, né tránh, tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", "trên vội vã, dưới thư thả". Thực tế ấy đòi hỏi muốn làm sạch đội ngũ đảng viên trong toàn Đảng, trong sạch đội ngũ cán bộ trong toàn bộ máy, Đảng ta phải có bản lĩnh và quyết tâm chính trị cao.
Thời gian tới, khi mà cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực càng được đẩy mạnh thì các thế lực thù địch, phản động cũng sẽ gia tăng sự chống phá. Dù cam go, phức tạp, dù khó khăn đến mấy cũng không ai có thể phủ nhận, xóa nhòa những thành công của chúng ta, không ai có thể làm nhụt ý chí, quyết tâm của chúng ta. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải đề cao cảnh giác, nhận diện rõ ràng về những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội để từ đó kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động hòng phá hoại, ngăn cản cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2019

Bất tuân dân sự - một thủ đoạn nguy hiểm


Những năm gần đây, để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch thường sử dụng một thủ đoạn mới mang tên "bất tuân dân sự". "Bất tuân dân sự" thể hiện tư tưởng cực đoan, "vô chính phủ", đang được lợi dụng gắn với cái gọi là xã hội dân sự để chống phá Đảng, Nhà nước, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2019

Cần có cái nhìn bao dung, hiện đại đối với tình hình tôn giáo Việt Nam

Vẫn như những năm trước, sau khi công bố Phúc trình về tình hình nhân quyền thế giới (20-4-2018), ngày 29-5-2018, tại Washington DC, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Mike Pompeo đã công bố Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017, trong đó có Việt Nam.
Mặc dù trong phần viết về Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã ghi nhận một số tiến triển, nhưng về bản chất chính trị, tư tưởng, phúc trình năm 2017 vẫn không thay đổi. Hoa Kỳ vẫn bám giữ những quan điểm cổ hủ, lỗi thời từ thời kỳ "Chiến tranh lạnh"-kỳ thị với chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền nói chung và tình hình tôn giáo nói riêng ở Việt Nam.
Những thông tin các vụ việc về tình hình tôn giáo mà Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 đưa ra hoàn toàn sai sự thật. Chẳng hạn phúc trình viết: “Hiến pháp Việt Nam quy định quyền tự do tín ngưỡng … Thế nhưng luật hiện hành với những điều khoản mơ hồ lại cho Nhà nước rộng quyền hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo… Các tín đồ tôn giáo, đặc biệt là thành viên của các tổ chức chưa làm thủ tục đăng ký hoặc chưa được cấp đăng ký, tiếp tục bị các cán bộ an ninh địa phương quấy rối, tấn công, bắt giữ, truy tố, giám sát, hạn chế đi lại, tịch thu tài sản hoặc gây sức ép buộc bỏ đạo và chấm dứt hoạt động tôn giáo…”.  Những thông tin và đánh giá như trên, nếu không phải là sao chép các phúc trình những năm trước thì cũng là sự cóp nhặt những tin tức từ mạng xã hội với mưu đồ chống phá Việt Nam. Vậy quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam như thế nào?
Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam luôn tương thích với luật quốc tế về quyền con người
Quan điểm tư tưởng, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (năm 1930) cho đến nay về tín ngưỡng, tôn giáo là nhất quán. Sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Các Hiến pháp Việt Nam, từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, đến Hiến pháp 1992 (được sửa đổi vào năm 2001), 2013 đều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Điều 24 (Hiến pháp 2013) quy định: “(1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; (2). Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Thể chế hóa Hiến pháp 2013, năm 2016, Quốc hội thông qua Luật Tín ngưỡng tôn giáo. So với các quy định của pháp luật trước đây, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 có nhiều điểm mới, bảo đảm tốt hơn quyền của công dân và của mọi người trên lĩnh vực tôn giáo. Chẳng hạn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được mở rộng thành “quyền của mọi người” chứ không riêng của công dân Việt Nam. Nói một cách cụ thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài ở Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam bảo hộ. Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 còn bảo đảm quyền tín ngưỡng, tôn giáo đối với cả những người đã bị tước đi một phần quyền công dân-“Người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.
Cũng như pháp luật về quyền con người, người hưởng thụ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở tất cả quốc gia, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 quy định người hưởng thụ quyền có nghĩa vụ nhất định. Điều 5 (Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016) quy định: “Các hành vi bị nghiêm cấm: (1). Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; (2). Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; (4). Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. (5). Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi”. Những quy định này hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị, năm 1966 quy định: “(1). Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. … Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
Như vậy, hoàn toàn không có chuyện pháp luật Việt Nam về tôn giáo “với những điều khoản mơ hồ lại cho Nhà nước rộng quyền hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc”... như Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 của Hoa Kỳ viết.
Kiểm soát tôn giáo là thuộc “Quyền dân tộc tự quyết”
Việc nhà nước có hay không kiểm soát các tổ chức tôn giáo là thuộc “Quyền dân tộc tự quyết”. Tuy nhiên, nếu một quốc gia nào đó (được cho là) không kiểm soát tín ngưỡng, tôn giáo thì xã hội thường phải trả giá đắt. Chẳng hạn, cảnh sát Hoa Kỳ (8-4-2008) đã giải cứu hơn 400 trẻ em thuộc giáo phái đa thê ở bang Texas, Mỹ. Giáo phái này do Warren Jeffs cầm đầu. Y có đến 70 vợ. Trong đời sống của các gia đình giáo phái đa thê trẻ em là những nạn nhân đầu tiên. Trong nhiều gia đình giáo phái đa thê, có không ít trẻ em trai, trẻ em gái bị lạm dụng tình dục, có không ít bé gái đã trở thành “bà mẹ” ở tuổi "teen” và không biết cha của chúng là ai... Hay ở Nhật Bản, tháng 3-1995, giáo phái Aum đã xả chất độc thần kinh sarin tấn công đường tàu điện ngầm ở thủ đô Tokyo, gây ra thảm kịch lớn. Phải chăng, đây là “quyền tự do tôn giáo” phải  bảo vệ, phải bảo đảm mà Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 Hoa Kỳ vừa công bố? Việc Nhà nước Việt Nam yêu cầu các tổ chức tôn giáo phải đăng ký mới có quyền hoạt động và mới được Nhà nước bảo hộ (mà phúc trình phản đối) đơn giản chỉ nhằm bảo vệ quyền của các tôn giáo và bảo vệ trật tự an toàn xã hội là đúng đắn và hoàn toàn phù hợp với “Quyền dân tộc tự quyết”.
Ngay sau khi phúc trình thường niên nói trên công bố, nhiều quốc gia bày tỏ thái độ bất bình về việc Hoa Kỳ can thiệp vào công việc nội bộ của mình. Không ít quốc gia cho rằng: Thay vì tán phát “những tài liệu vô căn cứ”, can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, Hoa Kỳ hãy “lo chuyện nội bộ của mình đi”. Chẳng hạn như tình trạng kỳ thị với người da màu, hay những vụ thảm sát mà dường như chẳng có tháng nào không xảy ra ở Hoa Kỳ, thậm chí thảm sát còn diễn ra ngay ở trường học, trong nhà hát...
Đừng "té nước theo mưa"
Lợi dụng Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 của Hoa Kỳ, nhiều trang mạng xấu đã tán phát thông tin thất thiệt, ác ý cho rằng: Cộng sản là những kẻ “vô thần” nên không có gì khó hiểu Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam hạn chế, gây khó dễ nhằm xóa bỏ tôn giáo. Sự thật như thế nào?
Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khóa IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tất cả mọi người. Thực tế cho thấy, Việt Nam không chỉ nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo mà còn bảo đảm đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân một cách thỏa đáng.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 25 triệu người có đạo, chiếm 27% dân số; có gần 83.000 chức sắc; hơn 27.000 cơ sở thờ tự. Chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam còn khuyến khích các tôn giáo đóng góp vào công cuộc xây dựng Tổ quốc, nhất là trên lĩnh vực giáo dục và an sinh xã hội. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, các tổ chức tôn giáo đã thành lập được 269 trường mầm non với 6.620 phòng học, tương đương với 1,9% tổng số cơ sở giáo dục cả nước. Về bảo trợ xã hội, ở Việt Nam hiện có gần 800 cơ sở do các tôn giáo tổ chức… Các tổ chức này đang nuôi dưỡng những trẻ em mồ côi, tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, người nhiễm HIV/AIDS…
Việc một số cá nhân, nhóm tôn giáo bị các cơ quan chức năng xử lý hình sự, trấn áp là điều cần thiết và đúng luật, vì họ đã vi phạm pháp luật chứ không phải vì lý do tôn giáo. Sự trừng phạt này là nhằm bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác, vì lợi ích chung của xã hội.
Phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền, tôn giáo thế giới do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ biên soạn ra đời từ thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945-1991). Còn nhớ Tổng thống J.Carter (nhiệm kỳ 1977-1981) là người khởi xướng việc biên soạn và công bố “phúc trình”. Theo ông, đây là việc làm cần thiết để bảo vệ các “giá trị Mỹ”, ông đã kiến nghị nghị viện Hoa Kỳ thông qua đạo luật về việc hằng năm Hoa Kỳ công bố hai phúc trình trên. Kiến nghị của ông đã được nghị viện thông qua và giao cho Bộ Ngoại giao biên soạn. Còn nhớ trong thời gian này, thế giới chia thành hai hệ thống xã hội: Xã hội XHCN và tư bản chủ nghĩa. Hai hệ thống xã hội không chỉ khác biệt về hệ tư tưởng mà còn đối đầu với nhau về chính trị. Trong thời kỳ "Chiến tranh lạnh", Hoa Kỳ đã đồng thời dùng chiến tranh xâm lược nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam (thời kỳ 1954-1975) và thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” bằng phương pháp “thẩm thấu giá trị Mỹ” vào các chế độ, nhà nước xã hội XHCN, nói cách khác là chiến lược can thiệp, lật đổ, chuyển hóa các nước này sang mô hình chính trị đa nguyên.
Tình hình ngày nay đã khác, các quốc gia với hệ tư tưởng, thể chế chính trị xã hội khác nhau, không còn đối lập, đối đầu nhau nữa. Hoa Kỳ và Việt Nam ngày nay trở thành đối tác toàn diện. Văn kiện Đối tác toàn diện được nguyên thủ hai quốc gia ký kết năm 2013 ghi nhận nguyên tắc các bên tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và thể chế chính trị của nhau... Vì thế, Hoa Kỳ không nên dùng "phúc trình" để can thiệp vào công việc của Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có "kênh" đối thoại về nhân quyền… những khác biệt, khoảng cách nào đó do quan niệm về giá trị khác nhau thì hai bên có thể học hỏi lẫn nhau, rút ngắn khoảng cách thông qua đối thoại. Đây là phương thức tốt nhất, văn minh nhất, thay vì áp đặt quan điểm của mình cho một quốc gia, dân tộc khác.
Thiết nghĩ những người soạn thảo và thông qua Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 hãy từ bỏ tư duy chính trị cổ hủ, lạc hậu của thời kỳ Chiến tranh lạnh, không nên dùng cái gọi là “phúc trình thường niên” để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, điều này đi ngược lại lợi ích và làm tổn thương đến quan hệ giữa hai nước.

Phương thức hữu hiệu đã phá hủy tương lai - Xuyên tạc lịch sử

Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Việt Nam, sau này đã viết: “Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử”. Thế mà đáng tiếc, 44 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, vẫn còn có những ý kiến sai lệch, xuyên tạc lịch sử. Họ chẳng những đi ngược tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai mà còn khoét sâu những vết thương bởi mù quáng và bạo tàn. Hành động của họ xét cho cùng cũng chính là sự phá hoại tương lai…
Xuyên tạc, đánh tráo, xóa nhòa lịch sử

Thứ Năm, 5 tháng 9, 2019

Liệu “cách mạng cây”, “cách mạng cá” có dẫn đến một “cách mạng màu” ở Việt Nam

Hãy bảo vệ màu xanh đất Việt, hãy chung tay bảo vệ môi trường (BVMT), hãy bảo vệ động vật hoang dã, đấu tranh vì thành phố văn minh, hãy loại bỏ các dự án “ăn cả vào tương lai”…
Những năm gần đây, có rất nhiều phong trào kêu gọi người dân bằng những mỹ từ đẹp đẽ. Từ đó, nhiều người dân bị cuốn theo, tham gia tụ tập, ghi chữ ký, tâm thư, tuần hành những tưởng đòi quyền lợi cho mình. Nhiều sự việc phải qua một thời gian dài mới lộ ra, đó chỉ là những chiêu trò mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng để xuyên tạc, kích động, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam thông qua các tổ chức xã hội dân sự một cách rất tinh vi.
Từ “cách mạng cây”, “cách mạng voọc”

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2019

Qua giông bão mới biết giá trị đích thực của hạt lúa trên cánh đồng

Đất nước ta đã đi qua những chặng đường dài đầy khổ ải để hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển từng ngày, như lúa đã chín trên cánh đồng từng nhiều dông bão. Vậy mà đây đó, vẫn có những người bị kẻ xấu kích động biểu tình, gây rối, phá hoại, thậm chí cả những hoạt động mang dáng dấp bạo loạn để châm ngòi chiến tranh. Nhìn lại những vụ việc gần đây, chúng ta có thể rút ra nhiều điều đáng suy ngẫm…
Những phiên tòa và bài học cảnh tỉnh
Cách đây hơn một tuần, Tòa án Nhân dân (TAND) TP Hồ Chí Minh vừa mở phiên xét xử 4 bị cáo liên quan tới cái gọi là “Quốc nội quật khởi”. Bản cáo trạng cho biết, do có tư tưởng bất mãn, chống Nhà nước Việt Nam nên từ đầu năm 2017, Nguyen Michael Phuong Minh (Việt kiều Mỹ), Huỳnh Đức Thanh Bình, Trần Long Phi, Lê Quốc Phong cùng một số đối tượng đã cấu kết cùng nhau thành lập, tham gia tổ chức “Quốc nội quật khởi” để tổ chức tuyên truyền, lập kế hoạch mua vũ khí và lôi kéo người tham gia biểu tình, chiếm trụ sở chính quyền tại TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, gây bạo loạn tiến tới nhằm lật đổ chính quyền nhà nước Việt Nam.