3- Lần thứ ba: Xé bỏ Hiệp định Paris 1973 để trở thành
“những kẻ ăn mày nơi đất khách”.
Sau 13 năm kiên trì kháng chiến, tháng 10-1968, những
người Việt Nam yêu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đám phán hòa bình ở Hội nghị
Paris. Thế giới gọi đây là một cuộc đàm phán marathon vì hòa bình kéo dài nhất
lịch sử các cuộc chiến tranh qua gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công
khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, hơn 500 buổi họp báo và gần 1.000
cuộc phỏng vấn.
Sau gần 5 năm liên trì vừa đánh, vừa đàm, lẽ ra Hiệp định
Paris đã được ký kết vào tháng 10-1972 và chiến tranh đã không thể kéo dài thêm
nữa. Tuy nhiên, chính tập đoàn Việt gian phản động bán nước ở miền Nam Việt Nam
do Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu đã bác bỏ hầu hết các thỏa thuận đã đạt được giữa
phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (cùng lập trường với phái đoàn Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) với phái đoàn Mỹ và tự ý bỏ rời
bỏ bàn đàm phán. Hành động bỉ ổi này của chính quyền ngụy Sài Gòn là một trong
các nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến việc tổng thống Mỹ Richard Nixon mở cuộc ném
bom chiến lược bằng máy bay B-52 xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở
miền Bắc, giết chết hàng nghìn dân thường, làm bị thương hàng nghìn người khác,
đồng thời “tống” thêm 49 phi công Mỹ vào trại giam Hỏa Lò và cũng làm cho 43
phi công Mỹ khác mất mạng. Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và một số điểm dân cư
khác bị tàn phá nghiêm trọng.
Điều này chứng tỏ ngay khi đế quốc Mỹ buộc phải giảm dần
sự dính líu vào Việt nam bằng quân sự và rút quân Mỹ về nước nhưng tập đoàn Việt
gian bán nước ở Sài Gòn vẫn tiếp tục bán nước tới cùng bằng cách phá hoại một
Hiệp định hòa bình cho Việt Nam ngay từ khi nó còn chưa được ký kết. Và chỉ đến
khi người Mỹ không còn chịu đựng nổi sự ngoan cố của chính quyền ngụy Sài Gòn
và chính tổng thống Mỹ buộc phải đe dọa rằng: “Sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu
tên đểu giả đó (ám chỉ Nguyễn Văn Thiệu) không chịu chấp thuận”; thì Thiệu mới
chịu chỉ thị cho tổng trưởng ngoại giao Trần Văn Lắm quay lại Paris để ký kết
hiệp định.
Nhưng đây là chính là lần thứ ba và là lần cuối cùng,
tập đoàn Việt gian phản động bán nước ở Sài Gòn quay lưng lại với hòa hợp dân tộc.
Bất chấp việc Hiệp định Paris 1073 đã quy định rất rõ tiến trình thực hiện hòa
hợp dân tộc ở Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử tự do ở hai miền sau chiến tranh
dưới sự giám sát quốc tế, Nguyễn Văn Thiệu vẫn ngang ngược tuyên bố:
“Quốc tế bây giờ nói ông Thiệu không thi hành Hiệp định
Ba Lê... A lê quốc tế dẹp ! Chuyện này không phải của mấy người. Tôi biết tôi
phải làm cái gì, Hiệp định Ba Lê này mấy ông có đọc chưa, mấy ông thuộc bằng
tôi không, mấy ông xen cái lỗ mũi vô trong chuyện của tôi... Ôi đồ ba cái thứ
là hội quốc tế này, quốc tế kia đánh điện, tôi xé tôi vứt vào giỏ rác, kể cả
Liên Hợp Quốc cũng chẳng làm cái trò trống gì cho nên hình... Đừng nói giải
pháp chính trị, giải pháp chính trị rồi đưa tới Cộng sản... Cái hòa bình number
one đó là chết, là ở yên trong lòng đất, là cái hòa bình số 1; cái hòa bình thứ
2 là hòa bình dưới chế độ Cộng sản... Hễ nó (quân giải phóng) giỏi nó thắng
mình chịu. Mình thắng nó phải chịu. Không có cái chánh phủ liên hiệp tiên quyết...
Đi lại chính phủ liên hiệp tiên quyết bây giờ như mấy cha mà đi cổ vũ đó, nói
chính phủ liên hiệp, chính phủ liên hiệp thì là trở lại những chuyện mà mình đã
đấu tranh mấy năm trời để tránh nó ở trong cái bản hiệp định... Sẽ không có tổng
tuyển cử, sẽ không có chính phủ liên hiệp, sẽ không có phân chia vùng kiểm
soát, sẽ không có lực lượng thứ ba và không có một Chính phủ Cách mạng lâm thời
nào”.
Cấp dưới của Nguyễn Văn Thiệu cũng ra sức phá hoại việc
thi hành Hiệp định Paris. Bất chấp Điều 4 của Nghị định thư về ngừng bắn ở miền
Nam Việt Nam và về hoạt động các Ban liên hợp quân sự hai bên và bốn bên, mặc
dù Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhiều lần đề nghị
nhưng tập đoàn Việt gian bán mước ở Sài Gòn vẫn cự tuyệt. Ngày 19-2-1973, Trần
Thiện Khiêm, Thủ tướng chính quyền ngụy Sài Gòn đã ban hành Công văn số
437/PThT/BĐPT/KH ra lệnh: “Tuyệt đối không có việc tự động bắt tay giữa các chỉ
huy trưởng đơn vị các cấp của ta (Quân đội ngụy Sài Gòn) với địch (Quân giải
phóng) để chia khu vực và để cho địch tự do di chuyển”.
Không chỉ có vậy . Ngày 31-1-1973, đoàn đại biểu quân
sự của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam do Trung tướng Trần Văn Trà là trưởng
đoàn chuẩn bị ra sân bay Thiện Ngôn (Tây Ninh) để vào Trại Davis hoạt động
trong khuôn khổ Ban Liên hợp quân sự 4 bên giám sát thi hành Hiệp định Paris.
Thay vì phải đưa máy bay trực thăng đến đón đoàn theo thỏa thuận, không quân ngụy
Sài Gòn đã huy động hàng chục lượt máy bay cường kích A-37 và AD-5 ném bom sân
bay Thiện Ngôn hòng ám sát Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và các
cán bộ trong đoàn. Tuy nhiên, đoàn đại biểu Quân giải phóng đã thoát hiểm vì tướng
Trần Văn Trà yêu cầu lùi thời gian xuất phát khoảng 1 giờ.
Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam cực lực phản đối hành động bất tín bỉ ỏi này. Chính quyền ngụy sài Gòn phải
xin lỗi vì… “nhầm lẫn” và cho máy bay trực thăng tới đoán đoàn ở sân bay Lộc
Ninh vào hôm sau.
Ngay từ khi Hiệp định Paris được ký kết, tập đoàn Việt
gian bán nước ở Sài Gòn do Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu đã xây dựng các gọi là “Kế
hoạch quân sự Lý Thường Kiệt” cho các năm 1973. Cuối năm 1973, Nguyễn Văn Thiệu
ký ban hành “Kế hoạch quân sự 4 năm (1974-1978), trong đó nêu rõ: “Phải iêu diệt
tận gốc hạ tầng cơ sở của địch (tức Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) ở nông
thôn… Tăng cường cho lực lượng lục quân có quân sơ 14.000 người cho 1 sư đoàn gồm
biệt động quân, nhảy dù, thủy quân lục chiến…”. Bộ Quốc phòng ngụy Sài Gòn ra
chỉ thị “gọi nhập ngũ hạng tuổi thuộc thành phần học sinh, duy trì quân số ở mức
1.100.000 quân”
Sát trước khi buộc phải ký Hiệp định Paris, Nguyễn Văn
Thiệu Thiệu tuyên bố sẽ “tràn ngập lãnh thổ”. Ngay trong đêm ký Hiệp định, quân
đọi ngụy Sài Gòn đã tổ chức 74 cuộc tấn công, trong đó có 44 cuộc ở Trị
Thiên-Huế, 10 cuộc ở Tây Nguyên và 20 cuộc ở Đông Nam Bộ. Trong suốt 2 năm 1973
và 1974, quân đội ngụy Sài Gòn đã mở hơn 12.000 cuộc tấn công quân sự lớn vào
các vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam và chủ động gây ra hơn 67.000 vụ nổ
súng khiêu khích khác. Ngày 11-6-1973, Văn phòng Tùy viên quốc phòng tại Quốc
hội Mỹ đã báo cáo Tiểu ban Quân vụ Thượng nghị viện Mỹ rằng chỉ riêng tại các tỉnh
từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kontum, Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, kể từ ngày Hiệp
định Paris có hiệu lực, quân đội ngụy Sài Gòn đã nã sang các vùng giải phóng
31.000 quả đạn pháo mỗi ngày, tương đương với số đạn pháo trung bình mà nước Mỹ
sản xuất trong một ngày.
Ngày 14-7-1973, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố chính sách 4
không đi ngược lại hoàn toàn những điều khoản đã được thỏa thuận ở Hiệp định
Paris: “Không thừa nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt
Nam; không chấp nhận chính phủ liên hiệp ba thành phần dưới bất kỳ hình thức
nào; không trung lập hóa những người thân Cộng sản ở miền Nam Việt
Nam’ không cho Cộng sản tồn tại ở bất kỳ một vùng đất nào”. Trước đó, ngày
28-6-1973, tại phiên họp thứ 14 của Hội nghị tham vấn thực thi Hiệp định
Hòa bình Paris giữa các bên ở miền Nam diễn ra tại La Celle-Saint-Cloud,
Pháp, Nguyễn Bá Cẩn, Chủ tịch cái gọi là Hạ nghị viện Sài Gòn, một
trong những kẻ theo đuôi và ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu nhất đã tuyên bố trắng
trợn rằng: “Không có cái gọi là hòa hợp dân tộc và hòa giải dân
tộc”.
Tháng 10-1973, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố đặt các tổ chức
chính trị trung lập vì hòa bình ở miền Nam Việt Nam (thường gọi là “lực lượng
thứ ba”) ra ngoài vòng pháp luật. Thiệu còn trắng trợn tuyên bố rằng những người
thuộc “lực lượng thứ ba” là tay sai của Cộng sản, do Cộng sản giật dây và
“không thể được phép sống thêm dù chỉ 5 phút”. Trong 2 năm 1973 và 1973, cơ
quan Cảnh sát đặc biệt của chính quyền ngụy Sài Gòn đã tiến hành hơn 160.000 vụ
đàn áp, bắt bớ, bắt cả trẻ em 6 tuổi thậm chí 2 tuổi vào trại tập trung được gọi
dưới cái tên mỹ miều là “Khu trù mật” nhưng thực chất là một thứ “Ấp chiến lược”
dưới thời Ngô Đình Diệm.
Ngày 8-4-1973, trả lời phỏng vấn của Kênh truyền hình
Face the Nation, Thiệu tuyên bố: “Không có tù nhân chính trị nào ở miền
Nam Việt Nam, chỉ có những tội phạm là Cộng sản hoặc tội phạm
khác…” Từ tháng 1-1974, Nguyễn Văn Thiệu phê duyệt kế hoạch cưỡng bức di cư
660.000 dân ở các địa phương đến khu vực quanh Sài Gòn hòng lợi dụng họ làm “lá
chắn sống”.
Trong khi đó thì cả những người Cộng sản Việt Nam vẫn
kiên trì vận động hòa bình cho việc thi hành Hiệp định Paris mặc dù phải cương
quyết giáng trả các đòn tấn công quân sự của quân đội ngụy Sài Gòn. Những người
Cộng sản Việt nam luôn muốn đối thoại để “tạo cơ hội cho hòa bình” và
không muốn tái diễn chiến tranh quân sự. Cả Việt Nam Dân chủ Cộng hò và
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều tiếp tục nhấn
mạnh tầm quan trọng của các nhóm Lực lượng thứ ba trong việc đem lại
hòa giải và thành lập “một chính phủ hòa hợp dân tộc” như thỏa thuận
trong Hiệp định Paris.
Cho tới tận cuối năm 1974, khi chiosnhq uyền Việt gian
bán nước của Nguyễn Văn Thiệu đã hầu như mất hết uy tín quốc tế cũng như bị đa
số nhân dân miền Nam lên án thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn giành cho ngụy
quyền Sài Gòn một cơ hội cuối cùng để cứu vạn hòa bình. Trong một cuộc trả
lời phỏng vấn nhà báo Pháp Jean Lacoutoure tháng 10- 1974, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng nói: “Việc thành lập một chính phủ hòa hợp dân tộc tại miền
Nam là chìa khóa cho hòa bình. Và lực lượng thứ ba là một phần
không thể thiếu trong giải pháp này. Vì chính trị là nghệ thuật của
điều có thể nên chúng ta phải kết luận rằng mô hình này là cách duy
nhất dẫn tới hòa bình”.
Thế nhưng, những đề nghị đối thoại hòa bình của những
người Cộng sản Việt Nam vẫn bị chính quyền Việt gian của Nguyễn Văn Thiệu đáp lại
bằng các cuộc ném bom, nã đạn pháo và các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải
phóng cũng như các cuộc đàn áp dã man đối với các lực lượng trung lập vì hòa
bình ở Sài Gòn và các đô thị miền Nam. Nguyễn Văn Thiệu đặc biệt thù ghét đồi với
“Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống”, “Phong trào nhân dân vì quyền tự
quyết” và “Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình” và đã ra lệnh cho lực
lượng Cảnh sát đặc biệt Sài Gòn tiến hành hơn 7.200 vụ đàn áp, bắt bớ đối với
các thành viên của ba tổ chức này.
Nhà sử học Gabriel Kolko, tác giả cuốn “Anatomy of a
War: Vietnam, the US and the Modern Historical Experience” (Giải phẫu một cuộc
chiến tranh) đã nhận xét:
“Những vũ khí mới mà người Mỹ cấp cho ông Thiệu không
chỉ vi phạm Hiệp định Paris mà chúng còn khuyến khích ông ta có hành động liều
lĩnh về quân sự mà cuối cùng đã khiến ông ta thua trận. Thật vậy, thực tế này
đã khiến một số người trong quân đội Mỹ kết luận rằng cung cấp thêm vũ khí cho
chế độ Sài Gòn là một sự lãng phí tiền bạc… Và đến năm 1974, các cuộc pháo kích
được tiếp tục với quy mô tổng lực mà không có sự tham gia của lực lượng Mỹ. Với
việc Quân đội Sài gòn bắn một số lượng đạn lớn hơn nhiều so với phía những người
Cộng sản, ông Thiệu tưởng rằng sức mạnh vượt trội về vũ khí sẽ cho phép ông ta
hoàn toàn giành chiến thắng. Nhưng ông ta đã rất sai lầm với kết cục là phải sống
lưu vong khi quân đội của ông ta tan rã hoàn toàn vào mùa xuân năm 1975”.
4- Các ông chẳng có gì để bàn giao cả.
Và cái gì đến ắt sẽ đến. Đây là lần thứ ba và là lần
cuối cùng, những người Cộng sản Việt Nam đã chìa bàn tay đối thoại và hòa hợp đối
với các thế lực Việt gian bán nước lẽ ra phải bị trừng trị từ lâu nếu chúng
không được ngoại bang yểm trợ. Nhưng đáp lại những đề nghị ấy lại là sự cự tuyệt.
Vì vậy, toàn thể dân tộc Việt Nam phải chấp nhận giải
pháp cuối cùng, giải pháp quân sự à tiến hành chiến dịch cuối cùng trong lịch sử
chiến đấu 30 năm ròng rã để giành lấy hòa bình, độc lập, chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ và thống nhất Tổ quốc để loại trừ những thế lực phản động đã chà đạp
lên những thỏa thuận hòa bình đã được quốc tế công nhận và bảo trợ; đã đàn áp
những lực lượng hòa bình, dân chủ trong nước; đã chống lại xu thế hòa bình của
nhân loại; đã chống lại quyền độc lập, tự quyết của dân tộc; đã chống lại ước vọng
thống nhất Tổ Quốc của toàn dân và âm mưu chia cắt vĩnh viễn đất nước Việt Nam.
11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, các chiến sĩ của Trung
đoàn 9, Sư đoàn 304. Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm lĩnh Dinh Độc lập, dinh
lũy cuối cùng của các thế lực Việt gian bán nước. Đại úy Phạm Xuân Thệ, Phó
trung đoàn truwrng dẫn các chiến sĩ của mình ập vào phòng họp. Toàn bộ cái gọi
là Chính phủ Việt nam Cộng hòa đều có mặt tại đây. Dương Văn Minh, tổng thống
cuối cùng của cái gọi là Việt Nam Cộng hòa còn cố vớt vát chút sĩ diện:
- Chúng tôi chờ quân cách mạng đến để bàn giao chính
quyền.
Đại úy Phạm Xuân Thệ trả lời:
- Các ông chẳng có gì để bàn giao cả ! Các ông phải đầu
hàng vô điều kiện !
Đúng ! Những kẻ bán nước khi đã bị những người yêu nước
đánh bại thì còn có cái gì để mà bàn giao đây ?
Ba lần những người Cộng sản Việt Nam đề nghị đối thoại
hòa bình để thực hiện hòa hợp dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhưng cả ba lần, họ đều bị phản bội. Cả ba lần ấy, họ đều bị những thế lực Việt
gian phản động thù địch vì quyền lợi ích kỷ của chúng và dựa vào sự yểm trợ của
đế quốc ngoại bang để mưu đồ tiêu diệt họ.
Và vì ba lần quay lưng lại với hòa bình và độc lập dân
tộc của những kẻ cam tâm bán nước ấy mà chiến tranh đã lấy đi sinh mạng của hơn
3 triệu người Việt Nam, hàng triệu ngôi nhà bị tàn phá; hàng trăm nghìn ha đất
đai bị bom đạn cày xới và ô nhiễm chất độc hóa học; hàng triệu người Việt Nam bị
tàn phế bởi chiến tranh, hàng chục vạn trẻ mồ côi, hàng nghìn nhà máy bị phá hủy
.v.v… Tội ác đó là không thể đo đếm hết được. Vì thế, sự diệt vong của các thế
lực Việt gian ấy là thực sự đích đáng, không còn gì để bàn cãi và níu kéo.
Một sự
thất tín thì vạn sự chẳng tin. Nhưng đối với những kẻ cam tâm bán nước thì đã
là quá tam ba bận rồi. Còn nói chi đến chuyện hòa hợp với hòa giải gì nữa đây ?