Thời gian gần
đây, Lê Đình Công cầm đầu, cùng với một số người dân xã Đồng Tâm còn theo “Tổ
đồng thuận” như Nguyễn Văn Tuyển, Trần Thị La, Nguyễn Quốc Tiến, Lê Thị Thoa...
tiếp tục có các hoạt động kích động bạo lực. Số người này thường xuyên lợi dụng
mạng xã hội để đăng tải các bài để với nội dung xuyên tạc vụ việc Đồng Tâm, kêu
gọi tập trung đông người, hướng dẫn, tổ chức các hoạt động nhằm chuẩn bị vũ
khí, công cụ để chống lại các lực lượng chức năng khi xây dựng
tường rào quanh khu vực sân bay Miếu Môn.
Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2019
Thứ Ba, 17 tháng 12, 2019
TUYÊN TRUYỀN "ĐƯỜNG LƯỠI BÒ" - CHIẾN LƯỢC THÂM ĐỘC CỦA TRUNG QUỐC
Như vậy, sau hơn
3 tháng, dưới sự đấu tranh vừa kiên quyết, vừa mềm mỏng của lực lượng chức năng
Việt Nam, nhóm tàu địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã phải rút khỏi vùng
biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Có lẽ, nhóm tàu Hải Dương đã được nghỉ ngơi sớm
hơn vì mục đích chính là quấy rối hoạt động thăm dò của giàn khoan Hakuryu 5.
Theo lịch thì giàn khoan này sẽ hoàn thành nhiệm vụ vào ngày 30/7 nhưng trước
tình hình căng thẳng, giàn khoan Hakuryu 5 được quyết định kéo dài thời gian
tới 15/9, tuy nhiên ngày 22/10 vừa qua, giàn khoan mới trở lại bờ. Do dó, có
thể thấy rằng trong cuộc đấu tranh này, chúng ta đã hoàn toàn chủ động trong
đối phó với hành động khiêu khích, thủ đoạn ăn vạ “dùng sườn tàu Trung Quốc đâm
vào mũi tàu của Việt Nam”. Và điều đáng ghi nhận nữa, là trong 3 tháng quần
thảo với nhau trên biển Đông, tình hình chính trị xã hội trong nước ổn định,
nhân dân ta đã cảnh giác và không mắc vào luận điệu kích động của các thế lực
phản động. Tuy nhiên, trong những ngày gần đây, chúng ta có thể thấy sự nguy
hiểm của việc tuyên truyền “đường lưỡi bò” của Trung Quốc ngay trên đất nước
chúng ta còn nguy hiểm hơn hoạt động của tàu Hải Dương 8 kia rất nhiều.
Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2019
VIỆT NAM SẴN SÀNG LÀM TẤT CẢ ĐỂ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO QUỐC GIA
Thời gian vừa
qua, trước tình trạng nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc hoạt động trái phép
tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, nhân dân Việt Nam, dư
luận các nước trên thế giới và khu vực đã phản đối mạnh mẽ hành động trái phép
đó của nhóm tàu Trung Quốc. Bằng nhiều hình thức, biện pháp linh hoạt, sáng
tạo, phù hợp với luật pháp quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển, đảo quốc gia, buộc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc phải rút
khỏi vùng biển của Việt Nam. Hành động đó của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam đã được đại đa số người dân trong nước đồng tình, ủng hộ, dư luận quốc tế
và khu vực đánh giá cao. Tuy nhiên, vẫn còn có những phần tử cơ hội, phản động
lại tỏ ra hậm hực, tức tối trước kết quả đó. Thông qua các phương tiện thông
tin, các trang mạng xã hội chúng đã đưa nhiều thông tin bịa đặt, sai sự thật,
công kích Đảng, Nhà nước ta “sợ Trung Quốc, không có phản ứng mạnh trong vụ Bãi
Tư Chính”, “không dám nói thẳng Trung Quốc là nước đang gây bất ổn ở Biển
Đông”… Rõ ràng đó là những luận điệu hoàn toàn bịa đặt, xuyên tạc, vu cáo chủ
trương, đường lối đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước ta. Thực tế cho
thấy:
Thứ Năm, 5 tháng 12, 2019
MÃI NHỚ ƠN NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐÃ NGÃ XUỐNG VÌ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THIÊNG LIÊNG CỦA TỔ QUỐC
Biển Đông đang
dậy sóng! Những con sóng ngầm hung dữ đang nhăm nhe xé nát sự yên bình của biển
trời Tổ Quốc. Ngoại bang đang nhe nanh múa vuốt ngông cuồng đưa ra những đồi hỏi
phi lý về chủ quyền thiêng liêng của Non Sông ta. Đất nước đang đứng trước
những thử thách to lớn. Chúng ta cần sự bình yên để mưu cầu sự an lành, thịnh
vượng, hạnh phúc cho toàn dân. Chúng ta vừa gượng dậy sau những cuộc chiến ác
liệc, chúng ta biết cái giá trị của hòa bình. Dân tộc ta không hiếu chiến,
không dùng sức mạnh để uy hiếp các dân tộc khác, nhưng còn có nhiều kẻ ngu ngơ
về lịch sử, ảo tưởng về sức mạnh của súng đạn mà không nhớ ra dân tộc ta là một
dân tộc anh hùng. Lịch sử cũng
CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ 30/04/1975 - những giá trị không thể chối cãi
Miền Nam là
một bộ phận không tách rời của Việt Nam; nói như Hồ Chí Minh, đó là
thịt của thịt Việt Nam, máu của máu Việt Nam, sông có thể cạn, núi
có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi. Quyền sống,
quyền tự quyết dân tộc, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Những hành động xâm phạm độc lập, chủ
quyền lãnh thổ, can thiệp, áp đặt,… là điều trái đạo lý và pháp
lý, thủ đoạn thường thấy ở các thế lực thực dân đế quốc. Ở đâu có
những hành động ấy, ở đó tất yếu có sự đáp trả của nhân dân và
dân tộc đã từng gắn kết bên nhau vì sự sống còn, vì số phận lịch
sử, vì tự do và nhân phẩm. Đáp lại đòi hỏi ấy, quân - dân ta ở cả
hai miền Nam - Bắc đã coi chống thực dân, đế quốc và những thế lực đi
ngược lại lợi ích chung của dân tộc là một sứ mệnh thiêng liêng. Ở
đâu có kẻ thù xâm lược Việt Nam, ở đó có người Việt Nam chống xâm
lược.
Thứ Ba, 3 tháng 12, 2019
Phụ nữ Việt - Những điều bất ngờ nhất
Kỷ niệm ngày Phụ
nữ Việt Nam 20/10, hãy cùng chúng tôi nhìn lại những cái Nhất của phụ nữ dân
tộc mình để tự hào và trân trọng.
Người phụ nữ đầu tiên làm vua ở Việt Nam là: Bà Trưng Trắc, bà là con gái một lạc tướng ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Năm 40 của thế kỷ thứ nhất, bà Trưng Trắc đã cùng em gái là Trưng Nhị lãnh đạo nhân dân chống lại sự xâm lược của nhà Hán, thu giang sơn về một mối. Bà xưng vương và giữ ngôi trong 3 năm. Trong lịch sử, bà Trưng Trắc vẫn được gọi là "Vua bà".
Người phụ nữ đầu tiên làm vua ở Việt Nam là: Bà Trưng Trắc, bà là con gái một lạc tướng ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Năm 40 của thế kỷ thứ nhất, bà Trưng Trắc đã cùng em gái là Trưng Nhị lãnh đạo nhân dân chống lại sự xâm lược của nhà Hán, thu giang sơn về một mối. Bà xưng vương và giữ ngôi trong 3 năm. Trong lịch sử, bà Trưng Trắc vẫn được gọi là "Vua bà".
Thứ Hai, 2 tháng 12, 2019
NAM BỘ - NƠI THÀNH ĐỒNG TỔ QUỐC
Chỉ 21 ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực dân Pháp
đã nổ súng xâm lược nước ta lần thứ 2. Và ngày 23.9.1945, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Bác Hồ, nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên quyết chiến với quân xâm
lược.
Nam Bộ - Thành đồng tổ quốc
Chỉ 3 tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 23.9.1945, sáu nghìn quân Pháp dựa vào hơn 1 vạn quân Anh đã trắng trợn gây hấn ở TP Sài Gòn. Mục đích của chúng không chỉ ở Nam Bộ, mà thôn tính xong Nam Bộ thì tiếp tục thôn tính cả Việt Nam và Đông Dương. Đây là thời điểm lịch sử, buộc cả dân tộc Việt Nam một lần nữa lại phải đoàn kết một lòng, đứng dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh để bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Ngay buổi sáng ngày 23.9, khi thực dân Pháp vừa nổ súng tại Sài Gòn, UBND Nam Bộ đã họp, nhất trí tán thành chủ trương phát động kháng chiến và thông qua bản Hiệu triệu quân dân Nam Bộ đứng lên đánh trả địch.
Nam Bộ - Thành đồng tổ quốc
Chỉ 3 tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 23.9.1945, sáu nghìn quân Pháp dựa vào hơn 1 vạn quân Anh đã trắng trợn gây hấn ở TP Sài Gòn. Mục đích của chúng không chỉ ở Nam Bộ, mà thôn tính xong Nam Bộ thì tiếp tục thôn tính cả Việt Nam và Đông Dương. Đây là thời điểm lịch sử, buộc cả dân tộc Việt Nam một lần nữa lại phải đoàn kết một lòng, đứng dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh để bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Ngay buổi sáng ngày 23.9, khi thực dân Pháp vừa nổ súng tại Sài Gòn, UBND Nam Bộ đã họp, nhất trí tán thành chủ trương phát động kháng chiến và thông qua bản Hiệu triệu quân dân Nam Bộ đứng lên đánh trả địch.
CHỦ QUYỀN QUỐC GIA KHÔNG THỂ ĐÁNH ĐỔI BẰNG NHỮNG LỜI HỨA HÒA BÌNH
Mới đây Philippines chấp nhận thỏa thuận tỉ
lệ 60 -40 với Trung Quốc trong khai thác dầu khí ở vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
đã làm gia tăng mức độ nguy hiểm cho hòa bình trong khu vực. Biết rằng đó chỉ
là quan điểm, ý chí giải quyết vấn đề “ gác tranh chấp, cùng khai thác” theo
cách riêng của Philippines.
Công ước luật biển Liên hợp quốc (unclos) không có khái niệm, quy định về “khai thác chung” mà chỉ đề cập hợp tác bình đẳng trong hợp tác kinh tế của các quốc gia trên biển. Giữa các nước hợp tác khai thác chỉ thực hiện trong phạm vi lãnh thổ thuộc một quốc gia nào đó, tỉ lệ ăn chia thỏa thuận với nhau theo hợp đồng kinh tế, không phụ thuộc vấn đề chính trị hay tranh chấp. Chẳng hạn như Việt nam đang hợp tác liên doanh thăm dò, khai thác dầu khí với các nước trong vùng biển của mình là như vậy. Có 2 trường hợp được gọi là khai thác chung: (1) Khi có một nguồn tài nguyên vắt ngang qua biên giới biển của các quốc gia liên quan; (2) Khi nguồn tài nguyên nằm trong vùng chồng lấn mà giữa các nước chưa thể phân định rõ ràng hay đang tranh chấp (điều 74,83 Công ước unclos 1982). Lưu ý là khai thác chung chỉ thực hiện khi có một trong hai điều kiện đã nêu trên, không phải nằm trong phạm vi lãnh thổ EEZ của bất cứ quốc gia nào.
Công ước luật biển Liên hợp quốc (unclos) không có khái niệm, quy định về “khai thác chung” mà chỉ đề cập hợp tác bình đẳng trong hợp tác kinh tế của các quốc gia trên biển. Giữa các nước hợp tác khai thác chỉ thực hiện trong phạm vi lãnh thổ thuộc một quốc gia nào đó, tỉ lệ ăn chia thỏa thuận với nhau theo hợp đồng kinh tế, không phụ thuộc vấn đề chính trị hay tranh chấp. Chẳng hạn như Việt nam đang hợp tác liên doanh thăm dò, khai thác dầu khí với các nước trong vùng biển của mình là như vậy. Có 2 trường hợp được gọi là khai thác chung: (1) Khi có một nguồn tài nguyên vắt ngang qua biên giới biển của các quốc gia liên quan; (2) Khi nguồn tài nguyên nằm trong vùng chồng lấn mà giữa các nước chưa thể phân định rõ ràng hay đang tranh chấp (điều 74,83 Công ước unclos 1982). Lưu ý là khai thác chung chỉ thực hiện khi có một trong hai điều kiện đã nêu trên, không phải nằm trong phạm vi lãnh thổ EEZ của bất cứ quốc gia nào.
Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2019
SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI - YÊU CẦU VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN
Ngày nay, mạng xã hội đã và đang có tầm ảnh
hưởng ngày càng lan rộng. Thông qua mạng xã hội, mọi người có thể dễ dàng nắm
bắt, chia sẻ một lượng thông tin khổng lồ, với tốc độ lan truyền nhanh chóng;
đồng thời cũng giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin về các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kịp thời phản ánh, kiến
nghị ý kiến của mình từ đó các cơ quan chức năng sớm nắm bắt được để giải quyết
kịp thời, không để phát sinh phức tạp.
BẢO VỆ - SAVE HAY LỢI DỤNG MÔI TRƯỜNG ĐỂ CHỐNG PHÁ CHẾ ĐỘ
Những năm gần đây, xuất hiện một số nhóm
người và các trang mạng xã hội có chữ Save gắn với địa danh cụ thể như Save Sơn
Đoòng, Save Sơn Trà, Save Tam Đảo. Họ núp bóng hoạt động môi trường để kích
động, lôi kéo người dân phản đối các dự án kinh tế lớn, kêu gọi ký đơn tập thể,
kêu gọi tuần hành, biểu tình, thậm chí hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Hiện
tượng này cần sớm được nhận diện, cảnh báo và xử lý nghiêm minh.
Cảnh giác với những trang, nhóm có chữ SAVE
Cảnh giác với những trang, nhóm có chữ SAVE
Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019
Đàm Ngọc Tuyên và những luận điệu xuyên tạc, vu khống trắng trợn
Gần đây, Đàm Ngọc Tuyên đăng đàn trang boxitvn.net,
viết “Tổ quốc nếu lần này đã mất, thì không bao giờ còn có thể phục quốc
được nữa” đã trắng trợn xuyên tạc, vu khống Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt
Nam bắt bớ, đàn áp những người biểu tình phản đối Luật Đặc khu và Luật An ninh
mạng, nhằm kích động nhân dân biểu tình chống đối Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Đây là một âm mưu vô cùng thâm độc và nham hiểm.
Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2019
Mối quan hệ “diễn biến hòa bình” với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Nhiều bạn đọc thắc mắc rằng “diễn biến hòa
bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có liên quan gì tới nhau, chúng tác
động tới nhau như thế nào. Chúng tôi xin gửi tới bạn đọc một số thông tin.
Các chuyên gia đã chỉ ra rằng, “diễn biến hòa
bình” là yếu tố cơ bản thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đối với cách
mạng Việt Nam, việc các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” chính
là nhằm đẩy nhanh tiến độ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nước ta.
Việc thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được chúng thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực, với mọi cá nhân, tổ chức, nhất là đối với cán bộ, đảng viên, hòng
làm chuyển hóa từ nội bộ Đảng, tiến tới chuyển hóa chế độ sang chiều hướng tư
bản chủ nghĩa một cách “êm thấm, hòa bình”. Có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” là kết quả logic, là hệ quả trực tiếp của “diễn biến hòa bình”.Xử lý giáo dân vi phạm pháp luật có vi phạm Quyền tự do tôn giáo?
Gần đây, các cơ quan chức năng của Việt Nam
tiếp tục bắt giữ, xử lý những đối tượng vi phạm pháp luật, trong đó một số đối
tượng là giáo dân. Đã thành thói quen, các thế lực thù địch, phần tử phản động
lưu vong lại lợi dụng sự việc này để thông qua một số phương tiện truyền thông
ở nước ngoài tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm chống phá Nhà nước
Việt Nam. Họ vu cáo rằng Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, vi phạm tự do tôn
giáo.
Thứ Tư, 20 tháng 11, 2019
40 năm nhìn lại những ký ức chiến thắng chiến tranh biên giới Tây Nam 1979
Năm 1978 Polpot nổ
súng tấn công biên giới phía Tây Nam ròng rã hơn 1 năm trời, tràn sâu vào nội địa
hơn 10 cây số, nhưng những nhà chiến lược gia Việt Nam thời điểm đó vẫn nhại nại
kiên trì đánh động với thế giới và thuyết phục bằng ngoại giao và yêu cầu
Polpot lập vùng phi quân sự để giải quyết tranh chấp nhưng Polpot phớt lờ.
Thứ Ba, 12 tháng 11, 2019
Chiêu trò lợi dụng danh phận “nhà xuất bản tự do” để vu cáo Việt Nam
Lâu nay chúng ta vẫn
thấy làng đấu tranh dân chủ cố tình sử dụng những thuật ngữ, khái niệm dùng để
chỉ những con người, sự kiện, tổ chức tồn tại thực trong xã hội nhưng lại được
‘miễn trừ’ đặc ân ‘ngoài vòng pháp luật’ như tù nhân lương tâm, tù nhân chính
trị, nhà báo tự do, nhà báo độc lập, hội nhà báo độc lập, …. và nay là danh
‘nhà xuất bản tự do’.
Hiểu đúng quyền của dân tộc thiểu số trong quyền dân tộc tự quyết
Những năm qua, thực hiện chiến lược “diễn biến
hòa bình”, một trong những thủ đoạn thâm hiểm được các thế lực thù địch triệt
để lợi dụng là "quyền dân tộc tự quyết” hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Quyền tự
quyết dân tộc dưới góc nhìn luật pháp quốc tếXét trên bình diện quốc tế, quyền dân tộc tự quyết là quyền của mỗi dân tộc trong việc thiết lập chế độ chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Trong Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ), dân tộc tự quyết được coi là nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Hiến chương khẳng định: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc”; đó là quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền và có quyền tự định đoạt vận mệnh của mình.
Thứ Hai, 11 tháng 11, 2019
Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc là bảo vệ gốc dễ của độc lập dân tộc
Tròn 590 năm (1428) về trước, trong áng thiên
cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo” của Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế
giới Nguyễn Trãi đã khẳng định: Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn
hiến đã lâu. Cách nay 230 năm (1788-2018), Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ đọc
lời hịch đánh giặc giữ nước, trong đó có nội dung tuyên thệ bảo vệ bản sắc văn
hóa dân tộc: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/… Đánh cho sử tri Nam
quốc anh hùng chi hữu chủ.
Ra đời cách đây 75 năm, bản “Đề cương văn hóa
1943” của Đảng ta lần đầu tiên nêu rõ văn hóa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở
ba nguyên tắc: Dân tộc, đại chúng, khoa học. Tròn 20 năm trước (1998),
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm: “Nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2019
Mưu đồ trong Chiến lược "Diễn biến hòa bình" của thế lực thù địch
Câu hỏi trên đã được Báo Quân đội nhân dân
giải đáp, nhưng gần đây vẫn có bạn đọc hỏi. Chúng tôi cung cấp thêm thông tin
để bạn đọc hiểu và ý thức rõ hơn về nội dung này.
Chiến lược “diễn biến hòa bình” là chiến lược
tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các thế lực thù địch dùng biện pháp
“phi vũ trang” là chủ yếu để chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các
nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thực ra, các biện pháp “diễn biến hòa bình” bằng
chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, bóp nghẹt về kinh tế... làm suy yếu,
tan rã đối phương nhằm mục tiêu “không đánh mà thắng”, đã được các nhà chính
trị, quân sự nhiều nước thực hiện từ lâu. Nhưng đó thường là những biện pháp hỗ
trợ, bổ sung cho các hành động tiến công quân sự.Thứ Tư, 6 tháng 11, 2019
Lật tẩy chiêu trò lợi dụng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một số cán bộ làm báo để xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng với công tác báo chí cách mạng
Thời gian qua, hùa theo những kẻ phản động, bất mãn, trên
blog danlambao có bài viết: “Báo suy thoái – cán bộ mơ hồ – nghị quyết bơ vơ”
đã xuyên tạc vai trò và thành tựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là
luận điệu biến tướng, kế tiếp của những kẻ phản động cho rằng ở Việt Nam “không
có tự do báo chí”, là do “ở Việt Nam không có báo chí tư nhân”? Luận điệu cho
rằng Đảng ta để “Báo chí suy thoái” là phản động, cần bác bỏ trên cơ sở lý luận
và thực tiễn sau đây:
Tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn là vấn đề mang tính toàn
cầu. Nó
không chỉ là sự quan tâm của những người cầm quyền ở mỗi quốc gia, mà còn là
một đòi hỏi cơ bản của quyền con người, là nhu cầu tinh thần trong tiến trình,
tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc, nhất là trong thời đại bùng nổ thông
tin. Song, trong một thể chế chính trị cụ thể, nội hàm của tự do ngôn luận, tự
do báo chí được hiểu khác nhau do cách tiếp cận khác nhau, thậm chí do những
động cơ chính trị đối lập của các nhóm lợi ích khác nhau.
Thứ Ba, 5 tháng 11, 2019
Bản sắc văn hóa dân tộc là sức mạnh nội sinh vô cùng to lớn của dân tộc ta
Sau khi Báo Quân đội nhân dân đăng vệt bài
“Bảo vệ độc lập dân tộc-Gốc rễ là bảo vệ bản sắc văn hóa” từ ngày 16 đến
18-4-2018, tòa soạn nhận được nhiều hồi âm của các nhà văn hóa, chuyên gia, nhà
khoa học và bạn đọc. Ngoài việc đánh giá cao những vấn đề mà vệt bài đã nêu,
các ý kiến còn bổ sung, làm sáng tỏ thêm nhiều khía cạnh nhằm thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong tình hình mới.
GS, TSKH Vũ Minh Giang, Phó chủ tịch Hội Khoa
học lịch sử Việt Nam:
Bảo vệ di sản văn hóa dân tộc là bảo vệ tài
nguyên quý giá của quốc gia
Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2019
Chiến lược “diễn biến hòa bình” - hoàn cảnh ra đời
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, trước sự lớn
mạnh của Liên Xô và sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), hệ thống
XHCN hình thành và không ngừng lớn mạnh, phong trào cách mạng thế giới phát
triển nhanh chóng. Đế quốc Mỹ coi Liên Xô là đối thủ chính trên con đường thực
hiện giấc mộng bá chủ thế giới.
Tổng thống Mỹ H.S.Truman đề ra “chiến lược
ngăn chặn”, sử dụng thủ đoạn cứng rắn, coi trọng thủ đoạn quân sự để “ngăn
chặn” sự “bành trướng” của Liên Xô, sự phát triển và mở rộng của chủ nghĩa cộng
sản (CNCS). Tuy nhiên, “chiến lược ngăn chặn” không có hiệu quả cao; nhiều
người trong chính giới Mỹ tỏ ra thức thời hơn, muốn tìm một phương thức khác có
thể chống chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiệu quả hơn. G.Kennan, Đại diện lâm thời sứ
quán Mỹ ở Liên Xô, ngày 22-12-1946 đã đề nghị với Chính phủ Mỹ dùng các biện
pháp chống Liên Xô toàn diện hơn, bao gồm bao vây quân sự, phong tỏa kinh tế,
lật đổ chính trị.Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2019
Lật tẩy chiêu trò dơ bẩn của những kẻ hiềm khích, chống phá trước Hội nghị TW 7, Khóa XII
Ngày 12-5, sau 6 ngày làm việc khẩn trương,
nghiêm túc, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã
hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Thành công của Hội nghị Trung
ương (HNTƯ) 7 là minh chứng sinh động, luận cứ thuyết phục, vạch trần toàn bộ
âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc thâm độc, bịa đặt trắng trợn của các thế lực phản
động, chống phá cách mạng Việt Nam.
Lật tẩy hai chiêu trò dơ bẩn
Thứ Tư, 30 tháng 10, 2019
Duy trì thượng tôn pháp luật trong mọi hoạt động hàng ngày của nhân dân
Sau khi thông tin về việc xử lý các đối tượng
biểu tình, gây rối, phá hoại ở Bình Thuận, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh... vừa
qua được công bố, đã xuất hiện những ý kiến lạc lõng, thiếu khách quan của một
số đài, báo nước ngoài và các thế lực thù địch để biện minh cho hành vi vi phạm
pháp luật. Lố bịch hơn, họ còn đổi trắng thay đen, kêu gọi phải “trừng phạt
Việt Nam vì đã đàn áp dã man những người biểu tình ôn hòa…”.
Việc xử lý bình thường và những ý kiến… không
bình thường?
Thứ Tư, 23 tháng 10, 2019
Khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam - Bức tường thép làm thất bại mọi âm mưu kêu gọi biểu tình, bạo loạn
Gần đây trên mạng xã hội, các thế lực thù địch
và phản động kêu gọi "tổng biểu tình" toàn quốc dịp 2-9. Không chỉ
lợi dụng mạng xã hội để hô hào, các thế lực này còn "tuyên bố" sẽ
liên tiếp phát động biểu tình đến khi nào lật đổ được chế độ cộng sản ở Việt
Nam mới thôi.
Nhưng dù các thế lực thù địch có kêu gọi đến
đâu, đưa ra những kịch bản gì thì với người dân Việt Nam yêu nước chân chính,
đó chỉ là những chiêu trò phá hoại lố bịch sớm bị lên án, tẩy chay và thất bại
trước khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Những kịch bản ảo tưởng, dối lừa
Thứ Năm, 17 tháng 10, 2019
Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, văn hóa trước sóng gió chống phá từ bên ngoài
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống
phá cách mạng Việt Nam, cả trước đây cũng như hiện nay, các thế lực thù địch
luôn xác định tiến công trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa (TTVH) là một “mũi đột
phá” và là một nội dung trọng yếu, là vũ khí lợi hại nhất. Trong cuốn sách
“1999-chiến thắng không cần chiến tranh”, R.Nixon đã xác định: “Mặt trận tư
tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động
mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại
trên mặt trận tư tưởng!".
“Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” - căn bệnh phải diệt tận gốc
Phòng, chống "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa” vốn là công việc rất khó khăn, phức tạp, vì nó liên quan
tới vấn đề tư tưởng, biểu hiện âm thầm, gặm nhấm dần lòng tin, xói mòn dần phẩm
chất đạo đức của cá nhân, tổ chức. Trong thực tế thì hiện tượng “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” cũng liên quan cả gián tiếp và trực tiếp tới công tác xây dựng
tổ chức, xây dựng con người, công tác cán bộ v.v..
Hơn nữa, khi thực hiện nhiệm vụ này rất dễ
đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của mỗi con người. Tuy khó nhưng không
thể không làm, vì vấn đề này có liên quan đến sinh mệnh chính trị, uy tín của
Đảng và sự tồn vong chế độ. Bởi thế, ngoài quan điểm tích cực và chủ động thì
việc kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" là rất quan trọng. Nếu không kiên quyết
trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì việc
thực hiện sẽ trở nên “nửa vời” và không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Thứ Ba, 15 tháng 10, 2019
Cán bộ và công tác cán bộ phải là vấn đề cốt yếu của Đảng ta
Đã thành thói quen, cứ trước mỗi sự kiện lớn
của đất nước, nhất là các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương là trên một số
trang mạng phản động, các thế lực thù địch lại đăng phát nhiều tin, bài xuyên
tạc vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong dịp Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII khai mạc và bế mạc, những âm mưu và hành
động chống phá ấy lại tái diễn.
Những giọng điệu xuyên tạc nguy hiểm
Tại Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành
Trung ương tập trung bàn về công tác quy hoạch cán bộ cho nhiệm kỳ Đại hội XIII
và một số nội dung quan trọng khác. Lợi dụng những yếu kém, bất cập của đội ngũ
cán bộ và công tác cán bộ thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội chính trị càng gia tăng chống phá với những giọng điệu bịa đặt, bóp méo,
xuyên tạc nguy hiểm.
Chúng cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng
thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ thời gian qua là do sai lầm trong công
tác cán bộ của Đảng. Trước việc Đảng ta kiên quyết, xử lý nghiêm minh các sai
phạm của hàng loạt cán bộ từ Trung ương đến cơ sở thời gian qua, chúng bóp
méo, xuyên tạc rằng đó chỉ là các "phe cánh triệt tiêu nhau". Chúng
trắng trợn xuyên tạc rằng, bản chất công tác cán bộ của Đảng ta là không dân
chủ, thiếu minh bạch, làm theo kiểu “áo gấm đi đêm”, việc quy hoạch, sắp xếp
cán bộ chỉ nhằm “thanh trừng bè phái”, “đấu đá nội bộ”, “lợi ích nhóm”... Đặc
biệt, chúng triệt để lợi dụng, khoét sâu những bức xúc của nhân dân trước tình
trạng một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chính quyền các cấp tham
nhũng, tiêu cực; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... để tung
ra những bài viết mang tính chủ quan, phiến diện một chiều, quy chụp mọi sai
lầm, khuyết điểm, yếu kém trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cho đội ngũ
cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.
Nguy hiểm hơn, chúng cho rằng mục đích của quy
hoạch cán bộ không vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích nhân dân mà chỉ là
phục vụ "lợi ích nhóm", là bước chuẩn bị để các cán bộ đương
chức “hạ cánh an toàn", chuẩn bị cho con em, "vây cánh" tiến
thân... Từ đó chúng trắng trợn bịa đặt rằng, trong việc quy hoạch bố trí, sắp
xếp cán bộ có sự "thương lượng", "thỏa hiệp" giữa các
"phe cánh". Lại có kẻ lên mặt khuyên rằng: “Đảng tốt hay xấu,
quan chức tốt hay xấu, người dân đều rõ cả. Do vậy, thay vì chống "luận
điệu xuyên tạc"... thì Đảng nên tôn trọng các giá trị dân chủ-nhân
quyền-pháp quyền và chứng minh Đảng trong sạch...”... Những giọng điệu thâm
hiểm ấy ít nhiều đã tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng, lòng tin của nhân dân vào
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng ta. Trước tình hình ấy, hơn lúc
nào hết, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nhận thức rõ vấn đề, từ đó đề
cao cảnh giác, kiên quyết vạch trần, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc
bịa đặt, sai trái của các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội.
Thực tiễn khẳng định rõ vai trò của cán bộ và
công tác cán bộ
Đề cập về vai trò của đội ngũ cán bộ và công
tác cán bộ, trong nhiều bài viết, bài nói V.I.Lênin đã khẳng định, cách mạng
muốn thành công thì phải coi trọng việc tuyển chọn, xây dựng đội
ngũ cán bộ, vì cán bộ có ý nghĩa quyết định thành bại của cách mạng. Thực
tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga đã chứng minh rõ điều ấy. Nói về vai trò của công
tác cán bộ, V.I.Lênin cũng chỉ rất rõ: “Nhiệm vụ tổ chức của chúng ta chính là
ở chỗ tìm ra những nhà lãnh đạo và những nhà tổ chức trong quần chúng nhân
dân”(1)... Nghiên cứu và vận dụng sáng tạo những tư tưởng của V.I.Lênin,
Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Đề cập đến vai trò của
cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc"(2). "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”(3). Nói về vai trò của công tác tổ chức cán bộ, Người cũng chỉ rõ:
“Tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng để có thể sử dụng tốt đội ngũ cán
bộ có chất lượng cao là điều kiện cơ bản cho bộ máy tổ chức Đảng và các cơ quan
công quyền vận hành tốt, có hiệu quả và ít bệnh tật”(4). Quan điểm, tư tưởng ấy
của Người luôn được Đảng ta quán triệt, vận dụng linh hoạt khi tiến hành
công tác cán bộ. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
luôn thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, chứ không có chuyện
"áo gấm đi đêm", “thanh trừng bè phái”, “đấu đá nội bộ” hay vì
“lợi ích nhóm”... như giọng điệu thâm hiểm mà các thế lực thù địch, phản động
rêu rao. Nhờ đó mà Đảng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ ngày càng
trưởng thành, lớn mạnh. Cần khẳng định rõ rằng, đây là nhân tố có ý nghĩa quyết
định đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đặc biệt trong sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước mặc dù số lượng không đông nhưng nhờ giáo dục,
bồi dưỡng, tôi luyện được đội ngũ cán bộ có chất lượng, luôn vững vàng trước
mọi gian khó, hiểm nguy, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng, luôn đi tiên
phong trên mọi mặt trận nên Đảng ta đã đoàn kết, động viên, phát
huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh thắng kẻ
thù xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Sau giải
phóng, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, đội ngũ cán bộ của ta đã có sự phát
triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Nhờ phát huy tốt vai trò trách nhiệm,
tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ mà Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân,
toàn quân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sau 20 năm thực hiện “Chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đội ngũ cán bộ các cấp của
Đảng ta đã có bước trưởng thành, phát triển cả về phẩm chất đạo đức và trình độ
năng lực, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, bắt
nhịp tốt với xu thế hội nhập, có trình độ ngoại ngữ và khả năng ứng dụng công
nghệ tốt, đáp ứng kịp yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán
bộ cấp chiến lược vững vàng bản lĩnh chính trị, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối,
chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức nhân dân thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh
đạo lực lượng vũ trang được tôi luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với
Đảng, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc,
vì hạnh phúc của nhân dân...
Không vì “con sâu làm rầu nồi canh” mà
phủ nhận vai trò của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ
Đúng như đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương
tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 (khóa XII), bên cạnh những ưu điểm là cơ
bản, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ của ta đông nhưng chưa mạnh. Năng lực
của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ,
trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp... Một bộ phận không nhỏ
cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc cầm chừng, ngại khó, ngại khổ,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa". Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong
đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm
chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ, nhất là cán
bộ quản lý doanh nghiệp Nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng,
lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi,
làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ
luật Đảng và xử lý theo pháp luật. Chỉ tính trong hai năm gần đây, Ủy ban Kiểm
tra Trung ương đã kiểm tra làm rõ nhiều sai phạm đặc biệt nghiêm trọng, quyết
định kỷ luật và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi
hành kỷ luật đối với 59 cán bộ diện Trung ương quản lý, 13 cán bộ Ủy viên Trung
ương và nguyên Ủy viên Trung ương; một Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII. Cấp ủy,
ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hàng nghìn cán bộ, đảng viên vi
phạm...
Công tác cán bộ vẫn còn những hạn chế, bất
cập, như: Việc thực hiện một số nội dung có nơi còn hình thức. Đánh giá cán bộ
vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất... Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng
thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương... Công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực
tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện
chủ trương bố trí một số chức danh không phải là người địa phương, trong đó có
bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố
trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy
trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ
tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng,
"cánh hẩu" xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã
hội. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế,
chính sách phù hợp. Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu
thống nhất, chưa đồng bộ... Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình
hình, còn tập trung nhiều ở cấp trên... Việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động,
chưa thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu
quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ
còn bị động, chưa theo kịp tình hình... Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ
chức, cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ...
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng những khuyết
điểm, sai phạm của một số tập thể, cá nhân nói trên chỉ là cá biệt, là “con
sâu làm rầu nồi canh”. Chúng ta không thể chỉ "thấy cây mà không thấy
rừng", không thể lấy cái cá thể để suy diễn, quy chụp lên cái tổng thể.
Không thể chủ quan, phiến diện dựa vào thiếu sót, khuyết điểm của một vài tập
thể, cá nhân mà phủ nhận sạch trơn vai trò của đội ngũ cán bộ và công tác cán
bộ. Có thể khẳng định rằng, sự trưởng thành, lớn mạnh của đội ngũ cán
bộ những năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Trong điều kiện mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ
và công tác cán bộ. Dư luận đồng tình với quan điểm của Đảng ta được thể hiện
trong phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “Phải coi
cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, công tác cán bộ
là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị”(5). Đặc biệt đối với việc chuẩn bị nhân sự cán bộ cho nhiệm kỳ tới,
tại Hội nghị Trung ương 9, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tiếp tục chỉ đạo: “Trong
quá trình thực hiện phải hết sức thận trọng, bảo đảm đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ và các quy định của Đảng về công tác cán bộ, phải thật sự công tâm,
khách quan, tuyệt đối không được thiên vị, cá nhân, không để lọt vào quy hoạch
những người không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người có biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có quan
điểm lệch lạc, mất đoàn kết, tham nhũng, tiêu cực”.
Những giọng điệu tuyên truyền
xuyên tạc về vai trò cán bộ và công tác cán bộ, nhất là nội dung Hội nghị Trung
ương 9 là chiêu trò hết sức lố bịch, đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Đảng ta càng tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thì các
thế lực thù địch, phản động càng gia tăng sự xuyên tạc chống phá.
Những kết quả đạt được, những bài học rút ra từ thực tiễn càng tiếp thêm ý
chí, quyết tâm để chúng ta tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải thực
hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị; phát huy
được trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Mặt
khác, toàn xã hội cần đề cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần những âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch để kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận
điệu sai trái, phản động hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân ta.
Thứ Ba, 8 tháng 10, 2019
Kẻ xấu phải xuống địa ngục
Trong niềm tin của
những tôn giáo Đa thần hay Độc thần đều có nói đến Thiên đàng mà nhiều người
cho rằng đó chỉ là “Cái bánh vẽ” để lừa gạt người ta…. Và có rất nhiều người
lãnh đạo tôn giáo hoặc chức sắc tôn giáo sau khi chết được phong “Thánh” và
theo niềm tin của họ thì những người được phong Thánh như thế đã được vào Thiên
đàng sống đời đời an vui hạnh phúc ?!
Kinh tế Việt Nam khẳng định sự phát triển và ổn định trước những định kiến cổ hủ
Mặc dù tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam trong
năm 2017 và 4 tháng đầu năm 2018 rất tốt, thế nhưng một vài người núp dưới danh
nghĩa "chuyên gia kinh tế" vẫn cố tình phủ nhận thành quả đó.
Họ cho rằng kinh tế Việt Nam không những không
tăng trưởng mà đang trong đà suy thoái năm thứ 10 liên tiếp. Họ thổi phồng nguy
cơ nợ xấu và cho rằng Việt Nam có thể sắp vỡ nợ; rằng nhà đầu tư nước ngoài
đang tháo chạy; rằng đời sống người dân khổ cực... Những nhận định thiếu khách
quan, thậm chí có dụng ý xấu đó không thể đánh lừa được dư luận.
Nền kinh tế đặc trưng của “con hổ châu Á”
Có thể thấy đây là nhận định hoàn toàn bịa
đặt. Thực tế cho thấy, kinh tế Việt Nam đang thuộc nhóm nước có tốc độ tăng
trưởng GDP cao của thế giới: Năm 2017 đạt 6,81%; quý I-2018 đạt 7,38% (cao nhất
trong 10 năm qua). Điểm nổi bật là trong quý I-2018, cả 3 khu vực kinh tế đều
tăng cao hơn cùng kỳ: Nông nghiệp được mùa, tăng 4,05% (cùng kỳ 2,08%); công
nghiệp và xây dựng tăng 9,7% (cùng kỳ 4,48%), trong đó, ngành chế biến, chế tạo
tăng mạnh với mức 13,56%; dịch vụ tăng 6,7% (cùng kỳ 6,36%). Tổng cầu của nền
kinh tế tiếp tục tăng; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
4 tháng đầu năm 2018 tăng 9,8%, loại trừ yếu tố giá còn tăng 8,5% (cùng kỳ tăng
7%). Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI-thể hiện sức mua của nền kinh tế) đạt
52,7 điểm, đứng trong nhóm đầu ASEAN. Nền kinh tế Việt Nam hiện đang là nền
kinh tế xuất siêu. Năm 2017, xuất siêu 2,9 tỷ USD; 4 tháng năm 2018 xuất siêu
3,39 tỷ USD.
Trong số báo cuối tháng 3, tờ Les
Echos của Pháp có bài viết đánh giá về nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, ông
Julien Marcilly, chuyên gia kinh tế nổi tiếng của Tập đoàn tài chính Coface
nhận định, nền kinh tế Việt Nam đang có những đặc trưng thường thấy của một
“con hổ châu Á”, như: Tăng trưởng mạnh ở mức hơn 6% được duy trì từ nhiều năm
nay; đầu tư nước ngoài tương đương 6,2% GDP vào năm 2016; thị trường nội địa
năng động nhờ vào hơn 90 triệu dân; cơ cấu kinh tế được đa dạng hóa và nâng
cấp, không còn chỉ dừng ở ngành dệt may mà chuyển hướng sang lĩnh vực điện tử.
Cùng chung nhận định trên, hãng tin Bloomberg đánh giá Việt Nam có
thể sẽ trở thành công xưởng của thế giới tiếp theo ở châu Á. Điều này đang
nhanh chóng trở thành sự thật bởi rất nhiều công ty công nghệ lớn của thế giới
đang đầu tư vào Việt Nam. Trong đó, Tập đoàn Samsung đã đầu tư vào Việt Nam 17
tỷ USD, với các nhà máy sản xuất ra 1/3 sản lượng của tập đoàn này trên toàn
thế giới. Theo tờ The Economist, các nhà đầu tư nước ngoài đang nhìn Việt
Nam là một nền kinh tế tự do hóa đầy hấp dẫn.
Tài chính quốc gia ổn định, tích cực
Về nhận định cho rằng Việt Nam sắp vỡ nợ thì
tình hình thực tế đang chứng minh điều ngược lại. Các tổ chức quốc tế đều đang
đánh giá cao sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong đó, hãng xếp
hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm của hệ thống ngân
hàng Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực”. Hãng tin Bloomberg đánh
giá VND là một trong những đồng tiền ổn định nhất khu vực châu Á.
Mới nhất, trung tuần tháng 5 này, tổ chức xếp
hạng tín nhiệm Fitch Ratings (Mỹ) vừa thông báo nâng xếp hạng nhà phát hành nợ
dài hạn bằng ngoại tệ (IDR) của Việt Nam từ mức “BB-” lên “BB” với triển
vọng “ổn định”. Fitch Ratings cũng đánh giá Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong
những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương,
với mức tăng trưởng GDP 6,7% trong năm nay. Hãng xếp hạng này cũng nhận xét khả
năng phòng, chống các cú sốc kinh tế từ bên ngoài của Việt Nam đã được cải
thiện, thể hiện ở việc dự trữ ngoại hối tăng từ 37 tỷ USD cuối năm 2016 lên 49
tỷ USD năm 2017. Fitch Ratings dự báo dự trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ tăng lên
khoảng 66 tỷ USD vào cuối năm 2018, tương đương 3,1 tháng nhập nhẩu. Dòng vốn
vào mạnh và khả năng tích lũy đã giúp thanh khoản hệ thống ngân hàng tăng.
Theo đánh giá quốc tế, nợ công của Việt Nam
vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Fitch Ratings cho rằng Chính phủ Việt Nam đã
thực hiện được cam kết duy trì mức nợ công và cải cách doanh nghiệp Nhà nước.
Tổ chức này ước tính, tổng nợ chính phủ của Việt Nam giảm về 52,4% GDP năm 2017
từ mức 53,4% năm 2016, trong khi nợ chính phủ bảo lãnh giảm về 9% GDP vào cuối
năm 2017 từ mức 10,3% cuối năm 2016. Nhờ đó, nợ công của Việt Nam giảm còn
61,4% GDP cuối năm 2017 từ mức 63,6% cuối năm 2016, và dưới mức trần 65% GDP.
Theo ước tính của Fitch Ratings, nợ chính phủ của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm và
về dưới mức 50% GDP vào năm 2019, nhờ nguồn thu từ chương trình cổ phần hóa.
Như vậy có thể thấy, "sức khỏe" tài
chính công của Việt Nam đang khá tốt. So sánh với nền tài chính công của một số
nước trên thế giới, ngay cả những nước có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam,
không ai không thấy được sự tích cực của nền tài chính công Việt Nam. Ví dụ
hiện nay, Italy đang có khoản nợ công lên tới 132% GDP.
Ông Alwaleed Alatabani-chuyên gia tài chính
của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam khẳng định: Việt Nam đạt được lạm phát
thấp và tăng trưởng GDP cao những năm gần đây là kết quả và minh chứng của việc
điều hành chính sách tiền tệ mạnh mẽ, kiên định. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
thành công trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế và sự ổn định, bền vững.
TS Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, thì cho rằng:
“Chúng ta có thể tin tưởng khẳng định rằng, gam màu sáng là chủ đạo trong bức
tranh của hệ thống ngân hàng và tiền tệ Việt Nam”.
Thước đo sức mạnh của một nền kinh tế được thể
hiện khá rõ trên thị trường chứng khoán. Theo đánh giá của hãng
tin Bloomberg thì Việt Nam đang trở thành thị trường chứng khoán phát
triển nhanh nhất, có nhiều thương vụ IPO lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Trong năm
2017, các thương vụ IPO của Việt Nam tăng lên đến 6 tỷ
USD. Bloomberg cho rằng, chứng khoán trên thị trường Việt Nam còn đắt
hơn cả nhóm cổ phiếu công nghệ ở Thâm Quyến (Trung Quốc).
Đời sống của người dân dần được nâng cao
Về nhận định mức sống của người dân Việt Nam
đi xuống thì thực tế không ai có thể tin nổi. Bởi theo WB, mức sống ở Việt Nam
đang được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm và các tầng lớp tiêu dùng mới mở rộng
nhanh chóng. Cụ thể, báo cáo "Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng
chung tại Việt Nam" của WB cho thấy, số dân Việt Nam được phân loại là an
toàn về kinh tế lên 70%, trong đó 13% thuộc tầng lớp trung lưu. Số người nghèo
ở Việt Nam từ 18 triệu vào năm 2010 đã giảm xuống còn khoảng 9 triệu vào năm
2016. 72% người nghèo ở Việt Nam nằm ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; WB dự báo
người nghèo ở khu vực này sẽ tiếp tục giảm với chính sách khuyến khích trồng
cây công nghiệp có giá trị cao để tăng thu nhập trong cộng đồng các dân tộc
thiểu số.
Nghiên cứu của Công ty tư vấn Boston
Consulting Group (BCG) cũng cùng chung nhận định trên khi cho rằng, tầng lớp
trung lưu đang phát triển với tốc độ nhanh chóng ở Việt Nam. Theo đó, tầng lớp
trung và thượng lưu với mức thu nhập từ 714USD/tháng trở lên ở Việt Nam tăng
lên mức 33 triệu người trong thời gian 2014-2020. Trong khi đó, Công ty nghiên
cứu thị trường Nielson ước tính, dân số thuộc tầng lớp trung lưu của Việt Nam
sẽ đạt mức 44 triệu người vào năm 2020 và 95 triệu người vào năm 2030.
Theo Solidiance-công ty tư vấn chiến lược hàng
đầu tại châu Á, giai đoạn 2012-2016, Việt Nam là quốc gia có nhu cầu tiêu thụ ô
tô tăng trưởng nhanh nhất khối ASEAN. Nếu tính riêng quãng 2015-2016, Việt Nam
có nhu cầu tiêu thụ ô tô đạt tăng trưởng 36%, trong khi Indonesia chỉ tăng nhẹ
5%, Thái Lan giảm 4% và Malaysia giảm 13%. Có thể nói, nhu cầu mua ô tô mới là
một biểu hiện rõ ràng của mức sống người dân đi lên.
Trong Báo cáo thịnh vượng 2017 (Wealth Report
2017) được Công ty Knight Frank công bố, Việt Nam là một trong số các quốc gia
có số người siêu giàu tăng nhanh hàng đầu thế giới. Theo báo cáo này, năm 2016,
Việt Nam có 200 người siêu giàu (mỗi người sở hữu từ 30 triệu USD trở lên),
tăng 32 người so với báo cáo năm trước đó và tăng 50 người so với năm 2014.
Theo đó, tốc độ tăng người siêu giàu đạt 170%. Knight Frank dự báo, trong vòng
một thập kỷ tới, Việt Nam sẽ có 540 người siêu giàu.
Tất cả những đánh giá tích cực,
mang tính khách quan nêu trên của các cơ quan, tổ chức quốc tế, cũng như sự
phấn khởi của người dân trước sự cải thiện thấy rõ của đời sống là những câu
trả lời rõ ràng cho những nhận định thiếu thiện chí của một số cá nhân về nền
kinh tế Việt Nam. Trong số này có những người luôn tỏ rõ thái độ hằn học với sự
đi lên của kinh tế-xã hội, của đời sống nhân dân Việt Nam, của sức mạnh dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng những cố gắng câu
kết với thế lực bên ngoài để bôi nhọ nền kinh tế-xã hội Việt Nam của họ là vô
nghĩa bởi thực tế đã chứng minh tất cả.
Thứ Hai, 7 tháng 10, 2019
“Lầm tưởng” - thủ đoạn thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình”
Trong chiến lược "diễn biến hòa
bình", chiêu thức thường được các thế lực thù địch tận dụng tối đa nhằm
làm sụp đổ một quốc gia là tìm cách bôi nhọ chế độ xã hội hiện tại, thổi phồng
những mặt trái của xã hội đó để gây tâm lý bất mãn rồi kích động sự phản kháng
trong xã hội.
Những vụ việc cụ thể, có tính cá biệt,
những sai phạm của cá nhân, thường được nâng lên thành bản chất của chế độ xã
hội. Đáng tiếc là vẫn có không ít người nhẹ dạ, thiếu thông tin, thiếu tầm
nhìn, không tự phát hiện được sự thật đằng sau những luận điệu kích động đó, họ
vô tình tự cướp đi bình yên của chính mình.
Ngộ nhận và bất mãn dễ bị kẻ xấu lợi dụng
Thứ Năm, 26 tháng 9, 2019
Kinh tế Việt Nam có suy thoái theo sự nhận định của “chuyên gia” nước ngoài?
Mới đây, một vài người được gắn mác “chuyên
gia” đăng đàn ở một cơ quan truyền thông nước ngoài với cách đưa thông tin sai
trái, phiến diện, thiếu thiện chí về Việt Nam, nhận định rằng: Nền kinh tế Việt
Nam đã suy thoái năm thứ 10 liên tiếp.
Rằng đang có một làn sóng tháo chạy khỏi nền
kinh tế Việt Nam: Nhà đầu tư nước ngoài bỏ đi, người dân thì chuyển hết tiền ra
nước ngoài. Các “chuyên gia” trên cho rằng, lý do là vì nhà đầu tư nước ngoài
và người dân đã mất hết niềm tin vào nền kinh tế Việt Nam. Từ đó họ hù dọa:
Việt Nam sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, siêu lạm phát và vỡ
nợ... Nực cười thay, những nhận định nêu trên trái ngược hoàn toàn với
thực tế đất nước và những dự báo lạc quan của các ngân hàng, các tổ chức tài
chính, tổ chức nghiên cứu thị trường, các tờ báo uy tín trên thế giới đánh giá
về kinh tế Việt Nam.
Thứ Tư, 25 tháng 9, 2019
“Lá phiếu tín nhiệm” - giữ nguyên giá trị trước lời lẽ xuyên tạc
Theo kế hoạch, ngày mai (25-12), Hội nghị lần
thứ 9 Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa XII sẽ khai mạc tại Hà Nội. Một
trong những nội dung quan trọng của hội nghị lần này là BCH Trung ương tổ chức
lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí
thư khóa XII.
Đây là việc làm cần thiết nhằm không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đồng thời góp phần đánh giá
thực chất chất lượng, hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của
Đảng.
Theo Quy định số 262-QĐ/TW ngày 8-10-2014 của
BCH Trung ương Đảng khóa XI “Về việc lấy phiếu tín nhiệm với các thành viên
lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội”, việc lấy phiếu tín nhiệm được tiến
hành định kỳ vào năm thứ ba là năm giữa nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp. Theo
kế hoạch, tại hội nghị lần này, BCH Trung ương Đảng sẽ tổ chức lấy phiếu tín
nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư. Đây là
công việc bình thường của Đảng nhằm thu thập thông tin, nhận định, đánh giá
khách quan phẩm chất, năng lực và chất lượng, hiệu quả công tác của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng.
Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành
viên lãnh đạo cấp cao của Đảng luôn nhận được sự quan tâm của đông đảo các tầng
lớp nhân dân và dư luận xã hội. Tuy nhiên, đón trước sự kiện này, một số người
đã tỏ ra “quan tâm thái quá”, “lo lắng trên mức bình thường”; có người “cầm đèn
chạy trước ô tô” bày tỏ sự hoài nghi, đoán già đoán non rằng, việc lấy phiếu
tín nhiệm của Trung ương Đảng chỉ là hình thức, "vuốt ve" nhau (!).
Có người còn cực đoan nhìn nhận, việc đánh giá mức độ tín nhiệm thông qua 3 mức
độ là “tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp” không những không đánh giá
đúng thực chất đối tượng được đánh giá, mà còn “đánh đồng” giữa những người có
tín nhiệm cao và tín nhiệm thấp (!). Trắng trợn hơn, có kẻ cơ hội chính trị xuyên
tạc rằng, đối với một chế độ cộng sản độc tài thì việc lấy phiếu tín nhiệm
trong Đảng chỉ là một cách “che mắt, đánh lừa dư luận” về dân chủ trong Đảng
(!); thậm chí còn rêu rao, sau những cuộc đấu tranh, thanh trừng giữa các phe
phái trong Đảng, những phiếu tín nhiệm cao sẽ thuộc về phe bảo thủ tạm thời
thắng thế trên đấu trường chính trị (!).
Thành ngữ có câu “Nghe hơi nồi chõ” với hàm ý
phê phán những kẻ hay hóng hớt, thích “chõ mũi” vào câu chuyện người khác, dù
chưa biết thực hư ra sao nhưng vẫn phỏng đoán lung tung, bàn ra tán vào không
có cơ sở. Cũng có câu thành ngữ “Thầy bói xem voi” với ý chê bai những kẻ xem
xét, đánh giá sự vật, hiện tượng theo cảm tính chủ quan, phiến diện, một chiều,
chỉ nhìn thấy hiện tượng đơn lẻ mà không thấy bản chất cũng như tính khách
quan, toàn diện, thấu đáo của vấn đề trên mọi khía cạnh. Khi Hội nghị lần thứ 9
BCH Trung ương Đảng khóa XII chưa diễn ra, mà những “kẻ ngoài lề” vẫn tùy tiện
nhận định việc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng như vậy cũng chẳng khác nào “nghe
hơi nồi chõ” và “thầy bói xem voi”!
Việc lấy phiếu tín nhiệm
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đã được Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định là việc làm cần thiết, được thực hiện dân chủ, khách quan,
công bằng, minh bạch. Thông qua lá phiếu tín nhiệm nhằm giúp cấp ủy có một kênh
thông tin tham khảo quan trọng, làm cơ sở cho việc đánh giá chính xác, bố trí
sử dụng đúng cán bộ. Việc xác định 3 mức độ “tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín
nhiệm thấp” trong quy trình lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo không
phải là hình thức “cào bằng” khi xem xét, nhận định mức độ hoàn thành cương vị
chức trách của cán bộ như có người suy nghĩ phiến diện, mà chủ yếu nhằm tiếp
cận, đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và chất lượng, hiệu quả công tác của
người được lấy phiếu tín nhiệm. Hơn nữa, việc xác định 3 mức độ tín nhiệm này
nhằm bảo đảm cho việc lấy phiếu tín nhiệm được khách quan hơn, thận trọng hơn,
thấu đáo hơn, tránh hiện tượng cảm tính mà người bỏ phiếu dễ nhận định, đánh
giá chưa đúng mực, chuẩn xác về cán bộ được lấy phiếu tín nhiệm.
Quy định số 262-QĐ/TW của BCH Trung ương Đảng
khóa XI đã chỉ rõ: Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo dựa trên
hai tiêu chí căn bản là phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực thực
tiễn. Vì vậy, những cán bộ nào có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng,
trách nhiệm cao trong công tác, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc, có đức tính trung thực, công tâm, liêm khiết, kiên quyết phòng, chống
tham nhũng, bản thân và gia đình gương mẫu về đạo đức, lối sống, có uy tín
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được phân công và góp
phần xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương mình phụ trách ngày càng vững mạnh,
phát triển thì chắc chắn nhận được nhiều số phiếu ủng hộ, tín nhiệm
cao.
Đảng ta đã có kinh nghiệm tổ chức lấy phiếu
tín nhiệm các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư tại Hội
nghị lần thứ 10 BCH Trung ương Đảng khóa XI. Trên cơ sở những kết quả
đã đạt được từ lần lấy phiếu tín nhiệm đầu tiên, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để
tin tưởng và khẳng định rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư lần này sẽ được BCH Trung ương thực hiện
dân chủ, khách quan, công tâm, minh bạch, bảo đảm đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Với truyền thống
đoàn kết và trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, đợt lấy phiếu tín nhiệm
lần này đối với các chức danh lãnh đạo cấp cao của Đảng sẽ được tiến hành bài bản,
chu đáo, thận trọng, nghiêm túc. Động thái này thêm một lần khẳng định Đảng ta
nói chung, mỗi cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng nói riêng luôn có ý thức, tinh
thần cầu thị, tôn trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng
viên trong toàn Đảng và nhân dân. Những thông số của mỗi lá phiếu tín nhiệm đối
với các chức danh lãnh đạo cấp cao của Đảng là tiền đề, cơ sở để mỗi cán bộ
được lấy phiếu tín nhiệm tiếp tục rèn luyện, phấn đấu, không ngừng hoàn thiện
phẩm chất nhân cách và nâng cao năng lực công tác, thực hiện tốt hơn, hiệu quả
hơn cương vị, trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019
“Phong sát” - chiêu bài đánh vào giá trị kinh tế đáng sợ của Trung Quốc
Nhiều sao Hoa ngữ đang rút chân khỏi các nhãn hàng quốc tế
như Coach, Versace, Balenciaga hay Givenchy để bảo vệ hình tượng trước sự
kiện"phong sát" hàng loạt của người dân Trung Quốc. Có vẻ như điều
này đã khiến các nhà mốt quốc tế lo sợ sẽ bị "mất" thị trường tỷ dân
vĩnh viễn? theo đồn đoán của giới mộ điệu thì rất có thể vì Hermes nhận ra
Trung Quốc là một thị trường tiềm năng nên việc bán túi in hình quốc kỳ nước
này chính là một cách "nịnh ngầm" các tín đồ thời trang xứ Trung.
Trang web trực tuyến bán chiếc túi là Moda Operandi. Nếu đúng
là hàng Birkin, item này cũng là sản phẩm từ xưởng da thuộc hàng đầu thế giới
của Hermès. Chiếc túi da cá sấu có giá 125.000 USD với thiết kế giống hình cờ
Trung Quốc vừa được rao bán rộng rãi trên mạng.
Quyền được thông tin của người dân luôn được Việt Nam coi trọng
Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân
là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng, bởi đây là một trong
những quyền cơ bản của con người.
Thế nhưng thời gian vừa qua, các thế lực thù
địch, phản động đã cố tình bóp méo, xuyên tạc sự thật về việc thực hiện các
quyền dân sự, chính trị nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng ở Việt
Nam. Trên một số trang mạng thiếu thiện chí có kẻ cho rằng Việt Nam "bóp
nghẹt", "bưng bít" thông tin; “cản trở các quyền tự do biểu đạt,
chính kiến và ngôn luận"... của người dân. Thậm chí trên trang mạng của
RFA còn hồ đồ phán rằng: “bưng bít thông tin là nguyên tắc của Chính phủ Việt
Nam...”.
Thứ Tư, 18 tháng 9, 2019
Đi lên xã hội chủ nghĩa là con đường dài hơi nhưng đúng đắn của dân tộc ta
Lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ 20 cho thấy,
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là một thành tựu vĩ đại trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta-thời
đại độc lập dân tộc gắn liền với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ.
Chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) đã kế thừa
truyền thống lịch sử của dân tộc, đồng thời còn kế thừa, phát triển những tư
tưởng tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc
trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ năm 1776 và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền” của Pháp năm 1789. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển những
tư tưởng tiến bộ đó thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng chế độ
xã hội dân chủ, cộng hòa theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản "Tuyên ngôn Độc lập"
năm 1945.
Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu có ý nghĩa
thời đại. Đó là thắng lợi của kháng chiến chống thực dân, đế quốc bảo vệ độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước; vượt qua cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống
của chủ nghĩa xã hội (CNXH) những năm 1985-1991, tiến hành công cuộc đổi mới
(từ năm 1986) thắng lợi.
Thế nhưng, lợi dụng internet, mạng xã hội, có
kẻ đã tung ra thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bôi nhọ CNXH và chế độ xã hội
XHCN nói chung, chế độ xã hội và Nhà nước ta nói riêng. Trên BBC gần đây có kẻ
viết rằng: “Gần như ở nơi nào mà CNXH đã được thử nghiệm, chúng cũng gây ra
đau khổ, tham nhũng và mục nát”. Có người cho rằng trên thế giới, học thuyết
Mác-Lênin đã lỗi thời; rằng “Việt Nam nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin” vì lý luận đó
“đã cản trở con đường tiến lên văn minh hiện đại trong hòa bình của Việt Nam”.
Có người thì “kiến nghị” Đảng nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, chuyển sang “tư tưởng
dân tộc, dân chủ”.
Vậy quan điểm cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam
cần từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường XHCN sai lầm ở đâu? Vì sao Việt
Nam khẳng định: Con đường phát triển của dân tộc ta chỉ có thể là con đường
XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo?
1- Kinh nghiệm lịch sử thế kỷ 20 đã chỉ ra
rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
thống nhất đất nước và phát triển đất nước-hội nhập quốc tế duy nhất đúng đắn
của nhân dân Việt Nam.
Còn nhớ trong thế kỷ 19 và 20, lực lượng chính
trị cực hữu ở các quốc gia phát triển đương thời, trong đó có Pháp, Nhật Bản và
Hoa Kỳ đã đến Việt Nam dưới khẩu hiệu “khai hóa”, nhưng thực chất đó là những
cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo. Khi đánh bại lực lượng phong kiến Việt Nam,
thực dân Pháp áp đặt chế độ thuộc địa, đồng thời duy trì chế độ phong kiến,
đẳng cấp, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận xương tận tủy.
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 là một ví dụ. Chỉ
tính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ (với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình) nạn
đói đã làm chết hơn 2 triệu người, chiếm gần 10% dân số Việt Nam khi đó. Theo
con số ghi chép từ công trình nghiên cứu “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam-những
chứng tích lịch sử” của GS Văn Tạo và GS Furuta Moto (Nhật Bản): “Nhiều làng xã
chết từ 50% đến 80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai. Làng Sơn
Thọ, xã Thái Thượng, huyện Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)
có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người”[1].
Nối tiếp cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh mang tính hủy
diệt đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời sử dụng chủ nghĩa thực dân mới: Xây
dựng chính quyền tay sai nhằm thống trị và chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam.
Còn nhớ ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của
chúng đã gây ra bao nhiêu vụ thảm sát. Không kể chế độ khắc nghiệt, tù nhân
phải ăn gạo mục, cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… nhiều tù nhân cốt cán phải
nằm xà lim, chuồng cọp, thường xuyên bị tra tấn dã man…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhân dân Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của các dân tộc trên thế giới, bao gồm cả nhân dân tiến bộ
Pháp, Mỹ… đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hơn 30 năm
qua (từ năm 1986 đến nay) do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã
đem lại những thành tựu có ý nghĩa thời đại. Từ một nước nghèo, trải qua hơn 30
năm chiến tranh, bị cấm vận, cho đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có mức thu
nhập trung bình, trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bình đẳng với
nhiều nước lớn, trong đó có Nga, Trung Quốc (đối tác chiến lược toàn diện) và
Hoa Kỳ (đối tác toàn diện).
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thập niên 30
của thế kỷ 20 đến nay chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy
nhất đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Tư tưởng xuyên suốt và nhất quán của
Đảng Cộng sản Việt Nam là đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn liền
độc lập dân tộc với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng năm 1930 xác định: Tiến hành “tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2].
Cương lĩnh năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử”.
Đại hội lần thứ XII (năm 2016) của Đảng đã xác
định mục tiêu của dân tộc Việt Nam là: Xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện… có Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
2- Để tiến đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”, con đường duy nhất của dân tộc Việt Nam chỉ có thể
là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính tất yếu của con đường XHCN của dân tộc
Việt Nam trước hết bắt nguồn từ lịch sử, từ sự lựa chọn của nhân dân. Ngày nay,
trên thế giới có nhiều mô hình xã hội với nhiều chế độ xã hội khác nhau. Mỗi
quốc gia, dân tộc lựa chọn mô hình nào đó đều dựa trên những điều kiện lịch sử
của dân tộc mình, đồng thời tùy theo thể chế xã hội và do đảng chính trị cầm
quyền lãnh đạo thực hiện. Không ít nhà nước trên thế giới ngày nay là nhà nước
“cộng hòa”, “cộng hòa dân chủ nhân dân"; “cộng hòa nhân dân”; “cộng
hòa-tổng thống"; "cộng hòa đại nghị"; nhà nước tôn giáo
(Vatican). Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và luật pháp các quốc gia đều tôn
trọng sự lựa chọn chế độ xã hội và nhà nước của các dân tộc.
Một số người lợi dụng internet, mạng xã hội
tán phát quan điểm xuyên tạc, phủ nhận xã hội XHCN nói chung, phủ nhận con
đường XHCN của dân tộc Việt Nam là vô căn cứ. Họ chỉ dựa vào tên gọi, hoặc tư
tưởng chính trị theo quan điểm giáo điều hoặc những mặt tiêu cực nào đó của xã
hội để đánh giá nước này là “văn minh”, nước kia là “lạc hậu”. Đó chỉ là những
thủ đoạn chính trị cổ hủ, vô căn cứ.
Tư tưởng về cách mạng xã hội tiến đến chủ
nghĩa cộng sản, trong đó “sự tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển của tất cả mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) do Mác và
Ăngghen sáng tạo trước khi có cách mạng XHCN. Lênin và Đảng Cộng sản Nga (sau
đó là Đảng Cộng sản Liên Xô) đã vận dụng, phát triển lý luận đó, lãnh đạo cuộc
Cách mạng Tháng Mười đưa đến sự ra đời nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới,
đồng thời mở ra hệ thống XHCN, phá thế độc quyền của tư bản chủ nghĩa (TBCN)
thế giới. Cho dù thế giới ngày nay đã có những thay đổi lớn lao nhưng không thể
phủ nhận được những sự kiện lịch sử mang tính thời đại này.
Ở Việt Nam, đi theo con đường của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát
triển sáng tạo học thuyết này phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của cách
mạng. Cuộc Cách mạng Tháng Tám không phải là một cuộc cách mạng vô sản như ở
nước Nga (năm 1917), mà là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo Chủ nghĩa
Lênin, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Nhà nước mới, sau cách mạng cũng
không phải theo mô hình nhà nước Xô-viết, mà là nhà nước “dân chủ, cộng hòa” do
nhân dân làm chủ, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hướng tới xã hội XHCN.
Chế độ xã hội ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay
đã trải qua hai mô hình xã hội với những thể chế và chính sách khác nhau. Mô
hình trước đổi mới (1976-1986) là “Chế độ làm chủ tập thể XHCN”[3]. Về chính
trị, đó là chế độ xã hội dựa trên nhà nước, thực sự của dân, do dân, vì dân…
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về kinh tế, đó là chủ trương “xóa
bỏ chế độ sở hữu TBCN… xác lập chế độ sở hữu XHCN dưới hai hình thức: Sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể” bằng những phương pháp và bước đi thích hợp.
Mô hình xã hội XHCN trong thời kỳ đổi mới (từ
năm 1986 đến nay) là sự phát triển sáng tạo chế độ xã hội XHCN, đồng thời khắc
phục những sai lầm nhận thức về CNXH. Mô hình đó, về chính trị, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Về kinh tế, đó là kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Về quan
hệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách rộng mở, không phân biệt chế
độ xã hội, hệ tư tưởng.
Cần phải khẳng định, Việt Nam đi theo con
đường XHCN là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay. Chế độ dân
chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân tộc Việt Nam ngày nay là sự kế thừa
và phát triển lịch sử dân tộc. Về mặt lý luận, chế độ Việt Nam nằm trong hình
thái quá độ từ CNTB lên CNXH, mở đầu từ sự ra đời của Nhà nước Xô-viết. Sự ra
đời của hệ thống XHCN và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc (từ thập niên
1960) đã xác nhận tính chất đúng đắn của lý luận đó. Còn nhớ, sau Chiến tranh
thế giới thứ hai cho đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng trăm quốc gia, dân
tộc, nơi các đảng chính trị theo chủ nghĩa yêu nước, Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong
đó có nhiều đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân lao động đứng lên lật đổ chế độ
thuộc địa, giành được độc lập dân tộc, trong đó có nhân dân Việt Nam. Do nhiều
nhân tố, trong đó có tác động của hệ thống XHCN, ở các nước TBCN đã hình thành
phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, tạo ra sự biến đổi những
cơ chế, chính sách ít nhiều dung hòa lợi ích giữa giới chủ với người lao động.
Điển hình cho phong trào này là kết quả đạt được giữa giới chủ với các tổ chức
công đoàn ở các nước Bắc Âu, do các đảng dân chủ XHCN (còn gọi là các đảng xã
hội dân chủ) lãnh đạo.
Thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện
nay khác với thể chế “Nhà nước chuyên chính vô sản” (trong thời kỳ trước đổi
mới), đó là Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện toàn diện những
bước phát triển về tư tưởng chính trị và pháp lý của Nhà nước Việt Nam.
Về chế độ xã hội, Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. (Điều 2).
Về vai trò và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Điều 4 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân,
phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Về quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày nay là rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội,
hệ tư tưởng, dựa trên các nguyên tắc-đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên
hết; tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng
có lợi. Tóm lại, đó là đường lối đối ngoại: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa…; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy
tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng).
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên đã dành cả
một chương để quy định về quyền con người trên tất cả các nhóm quyền, từ quyền
dân sự, chính trị đến các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Những quy định
này hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người của Liên
hợp quốc.
Đảng và Nhà nước Việt Nam không phủ nhận những
mặt tiêu cực đang tồn tại trong xã hội. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo,
tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là
tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam
công khai hóa, đồng thời đang triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng một
cách có bài bản và quyết liệt. Các nghị quyết Đại hội XI, XII, nhất là Nghị
quyết Trung ương 4, khóa XII cho thấy rõ quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân
Việt Nam trong cuộc đấu tranh này như thế nào. Trong những năm gần đây, không
ít cán bộ có chức, có quyền ở cả cấp cao, lực lượng vũ trang đã bị xử lý kỷ
luật Đảng và xử lý hình sự.
Tại Hội nghị Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương
về phòng, chống tham nhũng, chiều 27-4-2018 ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh
“không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và “làm đến cùng”[4]. Gần đây, ngày
1-8-2018, trong buổi làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng còn lưu ý: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, lãng
phí, phòng, chống tiêu cực, chúng ta thường nói nhiều đến công tác cán bộ…
“nhưng điều cốt yếu là gì? Đó là sự kiên định đi lên CNXH, dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Lịch sử thế kỷ 20
cho thấy: Không có lực lượng chính trị nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có
Cương lĩnh xác định mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân
dân; không có lực lượng chính trị nào có lý luận cách mạng khoa học sáng tạo,
có đường lối, chính sách phù hợp với xu thế của thời đại; có hệ thống tổ chức
chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và sẵn sàng hy sinh như
Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy có thể nói, sự phát triển của dân tộc Việt Nam
chỉ có thể là đi theo con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Công tác nhân quyền tại Việt Nam ngày càng gặt hái nhiều thành công
Thời đại ngày nay, xét từ giác độ khoa
học-công nghệ (KH&CN) là thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN
4.0). Cuộc cách mạng này hội tụ nhiều công nghệ, như trí tuệ nhân tạo (AI), vạn
vật kết nối-Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data), tất cả đều dựa
trên công nghệ thông tin (CNTT).
Với những công nghệ đó một thế giới mới, khác
biệt với thế giới mà con người đang sống đã ra đời-đó là thế giới ảo, thế giới
dựa trên kỹ thuật số, trên internet, mạng điện tử. Có thể nói, trong thời đại
CMCN 4.0 đi đôi với cơ hội, nhân loại cũng phải đối diện với những thách thức
mới-một trong những thách thức đó là phân biệt đâu là thực, đâu là ảo, đâu là
giả.
Thứ Ba, 17 tháng 9, 2019
Tự do hội họp không thể bị lợi dụng để chống phá Việt Nam
Quyền tự do hội họp là một trong những quyền
cơ bản của con người, được ghi trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và được bảo
đảm thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, những năm qua, lợi dụng các sự kiện
chính trị, xã hội phức tạp, nhạy cảm, các nhà đấu tranh khoác áo “dân chủ, nhân
quyền” triệt để lợi dụng quyền này để xuyên tạc, kích động người dân biểu tình,
bạo loạn nhằm tập dượt “cách mạng màu” chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Theo "Từ điển tiếng Việt", “hội họp”
là “tề tựu đông đảo”, là “tập họp ở một nơi để bàn bạc”. Quyền tự do hội họp là
một quyền cơ bản của con người được gặp gỡ, họp mặt để trao đổi, giao lưu, bàn
công việc… Việc hội họp có thể mang tính chất gia đình, bạn bè; có thể là sinh
hoạt của các tôn giáo, hoạt động của các hội đoàn để thảo luận, giải quyết công
việc nội bộ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Đó cũng là quyền của công dân
được gặp gỡ để thảo luận, góp ý kiến về các vấn đề chung của Nhà nước và xã
hội.
Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019
Tường rào biên giới Việt - Trung nói lên điều gì?
Thời gian gần đây rộ lên thông tin về bức tường biên giới
Việt - Trung, cho rằng "Trung Quốc xây dựng lên bức tường nhằm cô lập Việt
Nam, Trung Quốc muốn đóng biên giới với Việt Nam để chuẩn bị mật ước thành đô
2020"... và bức tường này được so sánh với "Tường Biên Giới giữa Hoa
Kỳ và Mexico".
Tuy nhiên, trên thực tế thì vấn đề lại hoàn toàn khác.
Chống tham nhũng đang bị lợi dụng xuyên tạc thành đấu đá nội bộ
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) là
một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng
và nhân dân ta. Không phải đến bây giờ mà cuộc đấu tranh PCTN đã được tiến hành
ở Việt Nam kể từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam năm 1930 cho
đến nay...
Có thể nói, chưa bao giờ công tác đấu
tranh PCTN lại được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt
như thời gian gần đây. Giữa lúc quyết tâm chính trị, tinh thần đấu
tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang lên cao thì các thế
lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội lại ra sức lợi dụng vấn đề này để
tiến hành các hoạt động chống phá. Hơn lúc nào hết, trách nhiệm của mỗi chúng
ta là phải nhận thức rõ ràng, đấu tranh kiên quyết với những âm mưu, thủ đoạn
đó.
Những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn
Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động và những
phần tử cơ hội chính trị thường xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, phức tạp,
trong đó tham nhũng là vấn đề được chúng triệt để lợi dụng. Cả thế giới đã thừa
nhận, tham nhũng là tệ nạn mang tính toàn cầu, tham nhũng xuất hiện và tồn tại
ở mọi quốc gia trên thế giới, các nước dù đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa
(XHCN) hay tư bản chủ nghĩa đều phải đối mặt với tệ nạn này, nguyên nhân
dẫn đến tham nhũng không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái nào nắm
quyền lãnh đạo đất nước... Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động lại ra sức
rêu rao rằng: “Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham
nhũng”; “do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy
ra...”; “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất,
chuyên chế độc đảng”... Không chỉ vậy, họ còn cho rằng: Tham nhũng chỉ xuất
hiện ở những nước đi theo con đường XHCN, “tham nhũng là vấn đề thuộc
bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam”... Thực chất của giọng điệu ấy không gì
khác là lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu
hòng làm suy giảm uy tín tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Khi mà chúng ta chưa đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống tham nhũng hoặc đã làm nhưng kết quả chưa rõ nét thì họ cho
rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy
thoái thành công vì Đảng cũng tham nhũng, suy thoái”... Khi Đảng và Nhà
nước ta thể hiện quyết tâm chính trị, đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, kiên
quyết xử lý hàng loạt cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực thì
chúng lại tung ra những giọng điệu lạc lõng, dựng chuyện, xuyên tạc rằng thực
chất cuộc đấu tranh PCTN ở Việt Nam hiện nay là “cuộc chiến
thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng”, "là sự đấu đá nội bộ, phe
phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam". Đề cập đến câu hỏi làm thế nào để dẹp
bỏ nạn tham nhũng ở Việt Nam, họ cho rằng: “Chỉ khi nào ở Việt Nam có chế
độ đa đảng thì nạn tham nhũng mới có thể dẹp bỏ được”... Từ những thông tin cóp
nhặt trên mạng xã hội, họ còn vẽ ra, dựng nên những câu chuyện nói rằng các phe
nhóm nội bộ ở Trung ương và địa phương đang đấu đá nhau... Đặc biệt, họ
thường suy diễn, chụp mũ, xuyên tạc những ý kiến chỉ đạo chống tham nhũng
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước...
Những giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là xuyên tạc mục đích, ý nghĩa
tốt đẹp của cuộc đấu tranh này; bôi nhọ, hạ thấp uy tín của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; chia rẽ nội bộ ta, gây phân tâm
trong xã hội, làm giảm sút ý chí, quyết tâm PCTN và lòng tin của
nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Kết quả của công tác chống tham nhũng là không
thể phủ nhận
Cần khẳng định rõ rằng những âm mưu, thủ đoạn
nham hiểm, tinh vi, những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt lạc lõng ấy không thể
phủ nhận được sự cố gắng, quyết tâm chính trị và những thành quả trong cuộc đấu
tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong 5 năm gần đây,
đặc biệt là những năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, công
tác PCTN được Đảng, Nhà nước ta chỉ đạo rất quyết liệt, tạo được một
bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan
tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội. Nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm
trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm được phát hiện, điều tra, truy tố, xét
xử nghiêm minh, đúng pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể
người đó là ai. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, có gần 1.300 đảng
viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng và cố ý làm trái. Tòa án nhân dân các
cấp cũng đã xét xử sơ thẩm 436 vụ án, với 1.118 bị cáo về các tội tham nhũng.
Các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng đã được Thanh tra Chính phủ tập
trung thanh tra, kiểm tra. Qua đó, đã chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 188
vụ với 335 đối tượng. Kiểm toán Nhà nước cũng đã kiểm toán 434 đơn vị đầu mối,
kiến nghị thu hồi về cho ngân sách Nhà nước hơn 65.000 tỷ đồng.
Các cơ quan chức năng đã chủ động, công khai
cung cấp thông tin, định hướng dư luận trong hoạt động PCTN, phát huy vai
trò tích cực của các cơ quan truyền thông, báo chí trong PCTN. Vai trò,
trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã
hội, các tổ chức xã hội và người dân trong PCTN ngày càng được phát
huy tốt hơn... Hoạt động hợp tác quốc tế về PCTN được mở
rộng. Kết quả công tác PCTN của Việt Nam những năm gần đây đã
được các tổ chức quốc tế ghi nhận có nhiều chuyển biến tích cực. Theo đánh giá
của Tổ chức Minh bạch quốc tế, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam tăng
liên tiếp trong hai năm sau nhiều năm giữ nguyên, từ 31 điểm năm
2015 tăng lên 35 điểm trong năm 2017.
Ngoài việc góp phần tạo ra bước phát triển về
kinh tế-xã hội, công tác đấu tranh PCTN góp phần tăng cường, củng cố
niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, vào chế độ XHCN. Kết quả
của công tác PCTN đã tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn
dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Những kết quả ấy
càng khẳng định rõ quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về PCTN. Đồng
thời đó cũng là minh chứng để khẳng định rõ việc đẩy mạnh PCTN, xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm
không làm hạn chế sức sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm của những người tâm huyết, vì sự nghiệp đổi mới của Đảng, với động cơ
trong sáng, lành mạnh, không “làm chậm” sự phát triển, mà ngược lại làm trong
sạch, tạo sức mạnh thật sự của bộ máy và đội ngũ cán bộ, củng cố và tăng cường
lòng tin của nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đó
càng chứng tỏ những luận điệu của các thế lực phản động về cuộc đấu
tranh PCTN của Việt Nam là xuyên tạc, bịa đặt, vô căn cứ.
Không thế lực nào có thể làm nhụt ý chí của
chúng ta
Thực tế đã khẳng định cuộc đấu
tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là trong sáng, công
khai, minh bạch, khách quan, tôn trọng nhân dân và coi trọng dư
luận; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là
ai. Những kết quả bước đầu đã để lại cho chúng ta những bài học quan
trọng. Nhưng cần đặc biệt nhấn mạnh, đó là sự thống nhất một ý chí, một
quyết tâm chống tham nhũng trong toàn Đảng. Chính quyết tâm chính trị
của Đảng là lời hiệu triệu lòng dân và những cán bộ, đảng viên đồng lòng trong
cuộc chiến này. Kết quả của cuộc đấu tranh PCTN thời gian qua cho
thấy quần chúng nhân dân và toàn xã hội đã đặt trọn niềm tin, tích cực ủng hộ ý
chí quyết tâm, nỗ lực đấu tranh PCTN của Đảng... Nhưng cũng cần phải
thấy ngay rằng những kết quả quan trọng đạt được mới chỉ là bước đầu. Tình hình
tham nhũng, tiêu cực và tệ quan liêu, lãng phí vẫn còn nhiều, phổ biến trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh sự vào cuộc quyết liệt của nhiều cơ
quan, tổ chức, lực lượng, đơn vị, địa phương thì ở đâu đó vẫn còn những biểu
hiện thiếu kiên quyết, né tránh, tình trạng "trên nóng, dưới
lạnh", "trên vội vã, dưới thư thả". Thực tế ấy đòi
hỏi muốn làm sạch đội ngũ đảng viên trong toàn Đảng, trong sạch đội ngũ
cán bộ trong toàn bộ máy, Đảng ta phải có bản lĩnh và quyết tâm chính trị
cao.
Thời gian tới, khi mà cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực càng được đẩy mạnh thì các thế lực thù địch,
phản động cũng sẽ gia tăng sự chống phá. Dù cam go, phức tạp, dù
khó khăn đến mấy cũng không ai có thể phủ nhận, xóa nhòa những thành công của
chúng ta, không ai có thể làm nhụt ý chí, quyết tâm của chúng ta. Vấn đề
đặt ra là chúng ta phải đề cao cảnh giác, nhận diện rõ ràng về những âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ
hội để từ đó kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản
động hòng phá hoại, ngăn cản cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta./.
Thứ Ba, 10 tháng 9, 2019
Bất tuân dân sự - một thủ đoạn nguy hiểm
Những năm gần đây, để thực hiện chiến lược
"diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù
địch thường sử dụng một thủ đoạn mới mang tên "bất tuân dân sự".
"Bất tuân dân sự" thể hiện tư tưởng cực đoan, "vô chính
phủ", đang được lợi dụng gắn với cái gọi là xã hội dân sự để chống phá
Đảng, Nhà nước, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Thứ Hai, 9 tháng 9, 2019
Cần có cái nhìn bao dung, hiện đại đối với tình hình tôn giáo Việt Nam
Vẫn như những năm trước, sau khi công bố Phúc
trình về tình hình nhân quyền thế giới (20-4-2018), ngày 29-5-2018, tại
Washington DC, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Mike Pompeo đã công bố Phúc trình tự
do tôn giáo thế giới 2017, trong đó có Việt Nam.
Mặc dù trong phần viết về Việt Nam, Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ đã ghi nhận một số tiến triển, nhưng về bản chất chính trị, tư
tưởng, phúc trình năm 2017 vẫn không thay đổi. Hoa Kỳ vẫn bám giữ những quan
điểm cổ hủ, lỗi thời từ thời kỳ "Chiến tranh lạnh"-kỳ thị với chế độ
xã hội chủ nghĩa (XHCN) do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, xuyên tạc, bóp méo
tình hình dân chủ, nhân quyền nói chung và tình hình tôn giáo nói riêng ở Việt
Nam.
Những thông tin các vụ việc về tình hình tôn
giáo mà Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 đưa ra hoàn toàn sai sự thật.
Chẳng hạn phúc trình viết: “Hiến pháp Việt Nam quy định quyền tự do tín ngưỡng
… Thế nhưng luật hiện hành với những điều khoản mơ hồ lại cho Nhà nước rộng
quyền hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo… Các tín đồ tôn giáo, đặc
biệt là thành viên của các tổ chức chưa làm thủ tục đăng ký hoặc chưa được cấp
đăng ký, tiếp tục bị các cán bộ an ninh địa phương quấy rối, tấn công, bắt giữ,
truy tố, giám sát, hạn chế đi lại, tịch thu tài sản hoặc gây sức ép buộc bỏ đạo
và chấm dứt hoạt động tôn giáo…”. Những thông tin và đánh giá như trên,
nếu không phải là sao chép các phúc trình những năm trước thì cũng là sự cóp
nhặt những tin tức từ mạng xã hội với mưu đồ chống phá Việt Nam. Vậy quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam và đời sống tín ngưỡng,
tôn giáo Việt Nam như thế nào?
Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam luôn tương
thích với luật quốc tế về quyền con người
Quan điểm tư tưởng, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam từ khi thành lập (năm 1930) cho đến nay về tín ngưỡng, tôn giáo là
nhất quán. Sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng xã hội, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng.
Các Hiến pháp Việt Nam, từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, đến Hiến pháp 1992 (được
sửa đổi vào năm 2001), 2013 đều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân.
Điều 24 (Hiến pháp 2013) quy định: “(1). Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; (2). Nhà nước tôn trọng và bảo hộ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Thể chế hóa Hiến pháp 2013, năm 2016, Quốc hội
thông qua Luật Tín ngưỡng tôn giáo. So với các quy định của pháp luật trước
đây, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 có nhiều điểm mới, bảo đảm tốt hơn quyền của
công dân và của mọi người trên lĩnh vực tôn giáo. Chẳng hạn: Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được mở rộng thành “quyền của mọi người” chứ không riêng của
công dân Việt Nam. Nói một cách cụ thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người nước ngoài ở Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam bảo hộ. Luật Tín ngưỡng
tôn giáo 2016 còn bảo đảm quyền tín ngưỡng, tôn giáo đối với cả những người đã
bị tước đi một phần quyền công dân-“Người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người
đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được sử dụng kinh
sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.
Cũng như pháp luật về quyền con người, người
hưởng thụ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở tất cả quốc gia, Luật Tín ngưỡng
tôn giáo 2016 quy định người hưởng thụ quyền có nghĩa vụ nhất định. Điều 5
(Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016) quy định: “Các hành vi bị nghiêm cấm: (1). Phân
biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; (2). Ép buộc, mua chuộc hoặc
cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Xúc phạm tín
ngưỡng, tôn giáo; (4). Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: a) Xâm phạm
quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường;
b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín
ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người
theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. (5). Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng,
hoạt động tôn giáo để trục lợi”. Những quy định này hoàn toàn tương thích với
luật quốc tế về quyền con người. Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền Dân sự,
Chính trị, năm 1966 quy định: “(1). Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự
do tín ngưỡng và tôn giáo. … Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có
thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an
ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền
và tự do cơ bản của người khác”.
Như vậy, hoàn toàn không có chuyện pháp luật
Việt Nam về tôn giáo “với những điều khoản mơ hồ lại cho Nhà nước rộng quyền
hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ
an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc”... như Phúc trình tự do tôn giáo
thế giới 2017 của Hoa Kỳ viết.
Kiểm soát tôn giáo là thuộc “Quyền dân tộc tự
quyết”
Việc nhà nước có hay không kiểm soát các tổ
chức tôn giáo là thuộc “Quyền dân tộc tự quyết”. Tuy nhiên, nếu một quốc gia
nào đó (được cho là) không kiểm soát tín ngưỡng, tôn giáo thì xã hội thường
phải trả giá đắt. Chẳng hạn, cảnh sát Hoa Kỳ (8-4-2008) đã giải cứu hơn 400 trẻ
em thuộc giáo phái đa thê ở bang Texas, Mỹ. Giáo phái này do Warren Jeffs cầm
đầu. Y có đến 70 vợ. Trong đời sống của các gia đình giáo phái đa thê trẻ em là
những nạn nhân đầu tiên. Trong nhiều gia đình giáo phái đa thê, có không ít trẻ
em trai, trẻ em gái bị lạm dụng tình dục, có không ít bé gái đã trở thành “bà
mẹ” ở tuổi "teen” và không biết cha của chúng là ai... Hay ở Nhật Bản,
tháng 3-1995, giáo phái Aum đã xả chất độc thần kinh sarin tấn công đường tàu
điện ngầm ở thủ đô Tokyo, gây ra thảm kịch lớn. Phải chăng, đây là “quyền tự do
tôn giáo” phải bảo vệ, phải bảo đảm mà Phúc trình tự do tôn giáo thế giới
2017 Hoa Kỳ vừa công bố? Việc Nhà nước Việt Nam yêu cầu các tổ chức tôn giáo
phải đăng ký mới có quyền hoạt động và mới được Nhà nước bảo hộ (mà phúc trình
phản đối) đơn giản chỉ nhằm bảo vệ quyền của các tôn giáo và bảo vệ trật tự an
toàn xã hội là đúng đắn và hoàn toàn phù hợp với “Quyền dân tộc tự quyết”.
Ngay sau khi phúc trình thường niên nói trên
công bố, nhiều quốc gia bày tỏ thái độ bất bình về việc Hoa Kỳ can thiệp vào
công việc nội bộ của mình. Không ít quốc gia cho rằng: Thay vì tán phát “những
tài liệu vô căn cứ”, can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, Hoa Kỳ hãy
“lo chuyện nội bộ của mình đi”. Chẳng hạn như tình trạng kỳ thị với người da
màu, hay những vụ thảm sát mà dường như chẳng có tháng nào không xảy ra ở Hoa
Kỳ, thậm chí thảm sát còn diễn ra ngay ở trường học, trong nhà hát...
Đừng "té nước theo mưa"
Lợi dụng Phúc trình tự do tôn giáo thế giới
2017 của Hoa Kỳ, nhiều trang mạng xấu đã tán phát thông tin thất thiệt, ác ý
cho rằng: Cộng sản là những kẻ “vô thần” nên không có gì khó hiểu Đảng Cộng sản
và Nhà nước Việt Nam hạn chế, gây khó dễ nhằm xóa bỏ tôn giáo. Sự thật như thế
nào?
Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khóa IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc”. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tất cả mọi người. Thực tế
cho thấy, Việt Nam không chỉ nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách
về tín ngưỡng, tôn giáo mà còn bảo đảm đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người
dân một cách thỏa đáng.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 25 triệu người có
đạo, chiếm 27% dân số; có gần 83.000 chức sắc; hơn 27.000 cơ sở thờ tự. Chính
sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam còn khuyến khích các tôn giáo đóng góp vào
công cuộc xây dựng Tổ quốc, nhất là trên lĩnh vực giáo dục và an sinh xã hội.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, các tổ chức tôn giáo đã thành lập được 269
trường mầm non với 6.620 phòng học, tương đương với 1,9% tổng số cơ sở giáo dục
cả nước. Về bảo trợ xã hội, ở Việt Nam hiện có gần 800 cơ sở do các tôn giáo tổ
chức… Các tổ chức này đang nuôi dưỡng những trẻ em mồ côi, tàn tật, người già
cô đơn, bệnh nhân tâm thần, người nhiễm HIV/AIDS…
Việc một số cá nhân, nhóm tôn giáo bị các cơ
quan chức năng xử lý hình sự, trấn áp là điều cần thiết và đúng luật, vì họ đã
vi phạm pháp luật chứ không phải vì lý do tôn giáo. Sự trừng phạt này là nhằm
bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác, vì lợi ích chung của xã hội.
Phúc trình thường niên về tình hình nhân
quyền, tôn giáo thế giới do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ biên soạn ra đời từ thời kỳ
Chiến tranh lạnh (1945-1991). Còn nhớ Tổng thống J.Carter (nhiệm kỳ 1977-1981)
là người khởi xướng việc biên soạn và công bố “phúc trình”. Theo ông, đây là
việc làm cần thiết để bảo vệ các “giá trị Mỹ”, ông đã kiến nghị nghị viện Hoa
Kỳ thông qua đạo luật về việc hằng năm Hoa Kỳ công bố hai phúc trình trên. Kiến
nghị của ông đã được nghị viện thông qua và giao cho Bộ Ngoại giao biên soạn.
Còn nhớ trong thời gian này, thế giới chia thành hai hệ thống xã hội: Xã hội
XHCN và tư bản chủ nghĩa. Hai hệ thống xã hội không chỉ khác biệt về hệ tư
tưởng mà còn đối đầu với nhau về chính trị. Trong thời kỳ "Chiến tranh
lạnh", Hoa Kỳ đã đồng thời dùng chiến tranh xâm lược nhiều quốc gia, trong
đó có Việt Nam (thời kỳ 1954-1975) và thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”
bằng phương pháp “thẩm thấu giá trị Mỹ” vào các chế độ, nhà nước xã hội XHCN,
nói cách khác là chiến lược can thiệp, lật đổ, chuyển hóa các nước này sang mô
hình chính trị đa nguyên.
Tình hình ngày nay đã khác, các quốc gia với
hệ tư tưởng, thể chế chính trị xã hội khác nhau, không còn đối lập, đối đầu
nhau nữa. Hoa Kỳ và Việt Nam ngày nay trở thành đối tác toàn diện. Văn kiện Đối
tác toàn diện được nguyên thủ hai quốc gia ký kết năm 2013 ghi nhận nguyên tắc
các bên tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và thể chế chính trị của nhau... Vì
thế, Hoa Kỳ không nên dùng "phúc trình" để can thiệp vào công việc
của Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có "kênh" đối thoại về
nhân quyền… những khác biệt, khoảng cách nào đó do quan niệm về giá trị khác
nhau thì hai bên có thể học hỏi lẫn nhau, rút ngắn khoảng cách thông qua đối
thoại. Đây là phương thức tốt nhất, văn minh nhất, thay vì áp đặt quan điểm của
mình cho một quốc gia, dân tộc khác.
Thiết nghĩ những người soạn
thảo và thông qua Phúc trình tự do tôn giáo thế giới 2017 hãy từ bỏ tư duy
chính trị cổ hủ, lạc hậu của thời kỳ Chiến tranh lạnh, không nên dùng cái gọi
là “phúc trình thường niên” để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam,
điều này đi ngược lại lợi ích và làm tổn thương đến quan hệ giữa hai nước.
Phương thức hữu hiệu đã phá hủy tương lai - Xuyên tạc lịch sử
Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa đại sứ Mỹ ở
Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Việt Nam, sau này đã
viết: “Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong
lịch sử”. Thế mà đáng tiếc, 44 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng, Tổ quốc được thống nhất, vẫn còn có những ý kiến sai lệch, xuyên tạc
lịch sử. Họ chẳng những đi ngược tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương
lai mà còn khoét sâu những vết thương bởi mù quáng và bạo tàn. Hành động của họ
xét cho cùng cũng chính là sự phá hoại tương lai…
Xuyên tạc, đánh tráo, xóa nhòa lịch sử
Thứ Năm, 5 tháng 9, 2019
Liệu “cách mạng cây”, “cách mạng cá” có dẫn đến một “cách mạng màu” ở Việt Nam
Hãy bảo vệ màu xanh đất Việt, hãy chung tay
bảo vệ môi trường (BVMT), hãy bảo vệ động vật hoang dã, đấu tranh vì thành phố
văn minh, hãy loại bỏ các dự án “ăn cả vào tương lai”…
Những năm gần đây, có rất nhiều phong trào kêu
gọi người dân bằng những mỹ từ đẹp đẽ. Từ đó, nhiều người dân bị cuốn theo,
tham gia tụ tập, ghi chữ ký, tâm thư, tuần hành những tưởng đòi quyền lợi cho
mình. Nhiều sự việc phải qua một thời gian dài mới lộ ra, đó chỉ là những chiêu
trò mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng để xuyên tạc, kích động, chống
phá Đảng, Nhà nước Việt Nam thông qua các tổ chức xã hội dân sự một cách rất
tinh vi.
Từ “cách mạng cây”, “cách mạng voọc”
Thứ Tư, 4 tháng 9, 2019
Qua giông bão mới biết giá trị đích thực của hạt lúa trên cánh đồng
Đất nước ta đã đi qua những chặng đường dài
đầy khổ ải để hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển từng ngày, như lúa
đã chín trên cánh đồng từng nhiều dông bão. Vậy mà đây đó, vẫn có những người
bị kẻ xấu kích động biểu tình, gây rối, phá hoại, thậm chí cả những hoạt động
mang dáng dấp bạo loạn để châm ngòi chiến tranh. Nhìn lại những vụ việc gần
đây, chúng ta có thể rút ra nhiều điều đáng suy ngẫm…
Những phiên tòa và bài học cảnh tỉnh
Cách đây hơn một tuần, Tòa án Nhân dân (TAND)
TP Hồ Chí Minh vừa mở phiên xét xử 4 bị cáo liên quan tới cái gọi là “Quốc nội
quật khởi”. Bản cáo trạng cho biết, do có tư tưởng bất mãn, chống Nhà nước
Việt Nam nên từ đầu năm 2017, Nguyen Michael Phuong Minh (Việt kiều Mỹ),
Huỳnh Đức Thanh Bình, Trần Long Phi, Lê Quốc Phong cùng một số đối tượng đã cấu
kết cùng nhau thành lập, tham gia tổ chức “Quốc nội quật khởi” để tổ chức tuyên
truyền, lập kế hoạch mua vũ khí và lôi kéo người tham gia biểu tình, chiếm trụ
sở chính quyền tại TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, gây bạo loạn tiến tới nhằm lật đổ
chính quyền nhà nước Việt Nam.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)