Sau khi Báo Quân đội nhân dân đăng vệt bài
“Bảo vệ độc lập dân tộc-Gốc rễ là bảo vệ bản sắc văn hóa” từ ngày 16 đến
18-4-2018, tòa soạn nhận được nhiều hồi âm của các nhà văn hóa, chuyên gia, nhà
khoa học và bạn đọc. Ngoài việc đánh giá cao những vấn đề mà vệt bài đã nêu,
các ý kiến còn bổ sung, làm sáng tỏ thêm nhiều khía cạnh nhằm thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong tình hình mới.
GS, TSKH Vũ Minh Giang, Phó chủ tịch Hội Khoa
học lịch sử Việt Nam:
Bảo vệ di sản văn hóa dân tộc là bảo vệ tài
nguyên quý giá của quốc gia
Tôi rất thích hình ảnh ví von dân tộc ta
trường tồn nhờ “dây neo” văn hóa. Chữ “dây neo” mang hàm ý là giữ được sự vững
vàng, giữ được cái gốc của văn hóa mà không bị lung lay, chao đảo trước “sóng
to gió cả” của thời cuộc, nhất là trong những thời kỳ lịch sử Việt Nam phải
chống chọi với hiểm họa xâm lăng, nô dịch lâu năm của kẻ thù. Văn hóa Việt
trường tồn đến nay là nhờ tổ tiên, ông cha ta đã biết giữ lại những gì thuộc về
tinh hoa, tinh túy của dân tộc, đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những giá
trị văn hóa tiến bộ của nhân loại.
Tư duy, năng lực ứng xử linh hoạt, tổng hợp là
nét đặc trưng nổi bật của con người Việt Nam qua các thời đại. Trong thời đại
toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục kế thừa và phát huy tính cách đó
để bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhưng bảo vệ
không có nghĩa là “khư khư giữ bằng được” những cái đã có, mà phải biến những
giá trị đó thành một trong những tài nguyên, một trong những lợi thế cạnh tranh
của nước ta trong hội nhập quốc tế. Vì tài nguyên thiên nhiên chỉ là hữu hạn,
khai thác mãi sẽ đến lúc cạn kiệt. Nhưng di sản văn hóa dân tộc càng khai thác
thì càng phát triển, vì đó là một thứ tài nguyên tái tạo vô tận. Vấn đề là ở
chỗ phải có tri thức hiểu biết, có sự linh hoạt sáng tạo phù hợp với thực tiễn
mới có thể biến di sản văn hóa thành tài nguyên, thành sức mạnh nội sinh và
động lực phát triển cho đất nước. Do đó, có thể nói rằng, bảo vệ di sản văn hóa
dân tộc cũng là một cách hữu hiệu để bảo vệ tài nguyên quý giá của quốc gia.
Trung tướng, PGS, TS Phạm Quốc Trung, Hiệu
trưởng Trường Sĩ quan Chính trị:
Giữ gìn “chủ quyền văn hóa” bằng những việc
làm thiết thực
Có nhiều cách để bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc. Một trong những cách đó là thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Nhất là trong thời đại bùng
nổ thông tin hiện nay, chúng ta phải tận dụng tối đa những ưu thế của công nghệ
thông tin để tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá những nét đẹp văn hóa của cha
ông cho thanh thiếu niên thông qua những hình thức sinh động, phong phú, hấp
dẫn, phù hợp với tâm lý, thị hiếu của giới trẻ. Cùng với đó là mở rộng giao lưu
văn hóa, nói chuyện lịch sử truyền thống, tăng cường tính tương tác, tính trực
quan sinh động khi giáo dục truyền thống văn hóa cho tuổi trẻ.
Trong đợt đi thăm quần đảo Trường Sa mới đây,
một trong những món quà mà đoàn công tác của Trường Sĩ quan Chính trị tặng quân
và dân Trường Sa là hộp đất mang từ Thành cổ Bắc Ninh-vùng đất nằm trong phòng
tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu), nơi từng vang lên bài thơ thần “Nam quốc sơn
hà”-lời Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc cách đây nghìn năm. Khi tặng
“hộp đất thiêng” này cho bộ đội đang ngày đêm canh giữ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc, chúng tôi muốn gửi một thông điệp tới các chiến sĩ trẻ: Trường Sa là một
phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, từ nay, quần đảo này có thêm khí phách
hào hùng “sông núi nước Nam” ngàn đời của tiền nhân truyền lại. Vậy nên, bảo vệ
vững chắc quần đảo Trường Sa cũng là bảo vệ “chủ quyền văn hóa” dân tộc Việt
Nam trên Biển Đông.
TS Nguyễn Viết Chức, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy
ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu thiếu và Nhi đồng của Quốc hội:
Đề cao trách nhiệm bảo tồn, phát huy giá trị
di sản văn hóa dân tộc
UNESCO đã cảnh báo cho cả thế giới, hễ ở đâu
phát triển kinh tế mà không quan tâm tới yếu tố văn hóa thì ở đó phát triển
không bền vững và những hệ lụy đặt ra cho xã hội lớn hơn nhiều so với kinh tế.
Điều này được cảnh báo từ lâu nhưng hình như để vượt qua điều này không dễ
dàng, nhất là những nước đang phát triển, bản sắc văn hóa dân tộc rất dễ bị tổn
thương.
Nếu trước đây dân tộc ta từng có cả nghìn năm
bị cưỡng bức văn hóa thì ngày nay chuyện đó sẽ khó có thể xảy ra. Nhưng trong
quá trình giao lưu văn hóa hiện nay, sự xâm nhập, thẩm thấu các giá trị văn hóa
ngoại lai vào nước ta diễn ra thông qua nhiều hình thức, con đường rất tinh vi,
nên chúng ta rất cần có những giải pháp phù hợp để phòng ngừa những tác hại, hệ
lụy của những luồng văn hóa lai căng, xấu độc. Muốn giữ được gốc gác cội nguồn
dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam, ngoài trách nhiệm của ngành văn hóa và
những người làm công tác văn hóa, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các
cấp, các ngành và cả cộng đồng, xã hội. Vì văn hóa gắn liền với mỗi con người,
mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi địa phương và gắn liền với các hoạt động chính trị,
kinh tế, xã hội, do đó, cả hệ thống chính trị phải cùng nêu cao trách nhiệm
trong việc tham gia giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của dân
tộc.
GS, TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó chủ tịch Hội
đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương:
Muốn đối thoại với các nền văn hóa khác, Việt
Nam phải giữ được bản sắc
Hiện nay, hội nhập quốc tế là quy luật khách
quan nhưng trong tương quan lại nghiêng về các nước phát triển, các nước lớn.
Cho nên Việt Nam cần tỉnh táo, thông minh trong quá trình hội nhập để không bị
hòa tan. Hội nhập văn hóa trải qua các chặng: Giao lưu, hợp tác và đối thoại.
Đối thoại là bình đẳng, không có cao thấp, nhưng muốn đối thoại được phải có
bản sắc riêng. Hội nhập văn hóa có những đặc thù riêng, không giống hội nhập
trong các lĩnh vực khác. Hội nhập văn hóa thống nhất giữa “nhận” và “cho”. “Nhận”
cái mới của nước ngoài nhưng chúng ta cũng phải “cho” thế giới, đóng góp cho
thế giới những điều đặc sắc trong văn hóa Việt Nam. Thực tiễn hội nhập văn hóa
thời gian qua, chúng ta đang “nhận” nhiều mà “cho” ít. Ví như lĩnh vực sân
khấu, ca nhạc, điện ảnh, nhiều nghệ sĩ bắt chước các yếu tố ngoại lai, ít có
sáng tạo mang dấu ấn bản sắc văn hóa Việt.
Lịch sử cho thấy, sức mạnh nội sinh là văn hóa
yêu nước, đó là sức mạnh trực tiếp, góp phần giữ nước, giải phóng và thống nhất
đất nước. Điều quan tâm hiện nay là phải chú trọng xây dựng nhân cách con người
Việt Nam, trong đó, nội hàm quan trọng nhất là ý thức bảo vệ Tổ quốc, tình yêu
Tổ quốc, năng lực bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta phải giữ cho được bản sắc truyền
thống, căn cước văn hóa Việt Nam để tự tin hội nhập quốc tế.
PGS, TS Từ Thị Loan, nguyên Viện trưởng Viện
Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam:
Phát triển công nghiệp văn hóa nội địa để làm
giàu văn hóa Việt
Sức mạnh nội sinh của một nền văn hóa phụ
thuộc nhiều vào thành quả của nền văn hóa dân tộc. Nhưng sức mạnh nội sinh của
dân tộc không tự nhiên mà có, mà cần quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển nền
công nghiệp văn hóa nội địa có đủ khả năng phục vụ nhu cầu của người dân trong
nước, tạo điều kiện cho việc tiếp cận, sử dụng, thưởng thức văn hóa của người
dân được tăng lên. Mặt khác, chúng ta phải tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa Việt
để giới thiệu, quảng bá, xuất khẩu ra nước ngoài.
Như Báo Quân đội nhân dân đã đề cập, vì thiếu
sản phẩm văn hóa chất lượng cao nên chúng ta mới phải “nhập siêu” nhiều sản
phẩm văn hóa nước ngoài như thế. Vì vậy, để góp phần bảo vệ sức sống của nền
văn hóa Việt, chúng ta cần sớm triển khai và hiện thực hóa Quyết định số
1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát
triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030”. Thực tế cho thấy, việc chú trọng xây dựng, phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa không chỉ góp phần làm gia tăng giá trị cho nền kinh tế quốc
dân, mà còn là giải pháp hữu hiệu để không ngừng làm giàu bản sắc văn hóa Việt.
Chỉ khi nào đa số người Việt đều yêu thích nhạc Việt, phim Việt, ham mê tiêu
dùng sản phẩm văn hóa Việt thì lúc đó chúng ta mới có “sức đề kháng” tốt để
phòng ngừa nguy cơ “xâm lăng văn hóa” ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu vào nước
ta.
Nghệ nhân Ama Loan, dân tộc Ê Đê, buôn Ako
Dhông, phường Tân Lợi, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc:
Cần có chính sách đồng bộ để bảo tồn văn hóa
các dân tộc thiểu số
Hiện nay, trước tác động của quá trình giao
lưu, hội nhập văn hóa với thế giới, nhiều dân tộc thiểu số đang đứng trước nguy
cơ mai một về bản sắc dân tộc. Điều quan ngại nhất là những nghệ nhân, những
người cao tuổi am hiểu sâu sắc về giá trị văn hóa, phong tục tập quán, nghi lễ,
truyền thống văn hóa của các dân tộc thiểu số sẽ ngày càng giảm dần. Vậy làm
sao để những “báu vật nhân văn sống” đó có thể trao truyền những tinh hoa văn
hóa của tổ tiên, ông cha mình cho thế hệ kế tiếp?
Theo tôi, ngoài thực hiện chế độ hỗ trợ về vật
chất cho các nghệ nhân văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số, cấp ủy, chính
quyền và ngành văn hóa các cấp cần có chính sách tổng thể, giải pháp căn cơ,
đồng bộ để bảo tồn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Các địa phương cần tập hợp các già làng ở các buôn, làng, xã để
tái hiện, tổ chức thành những điểm trình diễn văn hóa truyền thống nhằm giới
thiệu, quảng bá sâu rộng đến thế hệ trẻ; đồng thời tăng cường mở các lớp bồi
dưỡng, tập huấn, nâng cao nhận thức, ý thức cho các em học sinh, sinh viên về
mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và cách thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
trong hội nhập quốc tế.
Nguyễn Thị Thảo, sinh viên Trường Đại học Luật
TP Hồ Chí Minh:
Huy động sức mạnh của thế hệ trẻ tham gia bảo
vệ nền văn hóa dân tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta
đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng chúng ta đã vượt qua và tiếp tục phát
triển nhờ dân tộc ta giữ được bản sắc văn hóa. Chúng ta không bị đồng hóa trong
suốt chặng đường lịch sử bị ngoại bang nô dịch, để rồi chính những nét đặc
trưng văn hóa dân tộc đã khẳng định khí chất, bản lĩnh con người Việt Nam.
Trong thời kỳ hội nhập, nhiệm vụ bảo vệ nền văn hóa dân tộc càng khó khăn hơn.
Theo tôi, thế hệ trẻ Việt Nam
hiện nay, trước hết là đội ngũ sinh viên cần tích cực tham gia các hoạt động
bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; chú trọng giữ gìn những nét văn hóa
độc đáo mà cha ông ta đã chắt chiu, vun đắp; khơi dậy niềm tự hào, ý thức kế
thừa văn hóa trên tinh thần sáng tạo… Từ câu nói của Bác Hồ: “Nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”, có thể nói rằng, bản
sắc văn hóa Việt thời nay tồn tại hay không tồn tại cũng một phần trông mong,
cậy nhờ vào thế hệ trẻ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét