Thực ra trong tút "Về tính chính danh của
VNCH" tôi đã có nhiều cmt phân tích về chữ "ngụy" trong tiếng
Hán và chữ "ngụy" trong chữ "ngụy quân", "ngụy quyền",
anh em nào theo dõi đều đã có những hình dung về chữ này. Tút này là tút riêng
phân tích chữ "ngụy" trong mối quan hệ với chữ "chính",
"ngụy quyền" với "chính quyền".
"Ngụy" là một từ Hán Việt (chữ Hán
phồn thể: 偽; chữ Hán giản thể: 伪; còn một dạng phồn thể nữa là 僞). Chữ "Ngụy"
là tính từ, có nghĩa là "giả", "sự giả tạo", "ngụy
trang", "không chính thống";
Để hiểu về chữ "ngụy quyền" thì cần
phải đặt nó trong mối quan hệ với chữ "chính quyền". Những chữ này đều
là chữ Hán Việt, trong đó chữ "chính" (政) có nghĩa
là chính trị và có một chữ "chính" đồng âm dị tự nữa là "正" có nghĩa là "sự chính trực", "ngay thẳng",
"chính thống", "chính danh"; chữ "Quyền" (權) có nghĩa là "sức mạnh" hay "quyền lực" (權力). "Chính quyền" (政權) có nghĩa là
"quyền lực chính trị" hay "quyền lực Nhà nước"; còn
"chính quyền" (正權) có nghĩa là
"quyền lực chính thống".
"Ngụy quyền" (偽權) là khái niệm chỉ một thứ quyền lực giả tạo hay quyền lực có được một
cách không chính thống. Với nghĩa này, chữ "ngụy quyền" phải đối lập
nghĩa với chữ (正權) - "quyền lực chính thống" hay
"quyền lực có được một cách chính thống". Tất nhiên, cả 2 khái niệm
này đều đang được luận nghĩa trong phạm trù quyền lực chính trị (政權), chỉ khác về bản chất và cách thức để người ta có được nó.
Một nghĩa khác, trong lịch sử Việt Nam, chữ
"ngụy quyền" được dùng để chỉ một chính phủ hay thể chế được lập ra một
cách bất hợp pháp, không chính thống, do soán đoạt mà có, hoặc do quân xâm lược
nước ngoài dựng lên để hợp thức hóa sự xâm lược, đô hộ một nước khác, không được
đông đảo người dân công nhận. Chính phủ "ngụy quyền" không có thực
quyền mà mọi quyền lực thực chất đều nằm trong tay những kẻ đã can thiệp, dựng
lên nó; các quyết sách đối nội và đối ngoại của chính phủ "ngụy quyền"
đều phải được sự đồng ý của những kẻ nằm ngoài nội các là người đã dựng lên nó.
Như ở tút trước tôi đã phân tích về nguồn gốc
sự hình thành của "thể chế" Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ở miền Nam Việt
Nam trước năm 1975 - nó được hình thành bằng một trò gian lận phiếu bầu của gia
đình họ Ngô Đình dưới bàn tay đạo diễn của Hoa Kỳ để lật đổ một thể chế cũng
không hợp Hiến trước nó là Quốc gia Việt Nam do ông Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (tức
cựu hoàng Bảo Đại) do người Pháp dựng lên làm Quốc trưởng. Rõ ràng, cái cách mà
họ (kể cả ông Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy và ông Ngô Đình Diệm) và "thể chế"
của họ có được quyền lực chính trị đều không hợp pháp, không phù hợp với Hiến
chương Liên Hợp Quốc khi đều có bàn tay của một quốc gia khác can thiệp dựng
lên bằng chiến tranh xâm lược và bằng gian lận trong trưng cầu dân ý. Mặt khác,
cả QGVN và VNCH đều không có thực quyền mà quyền lực thực sự đều nằm trong tay
nước ngoài (với QGVN quyền lực thực sự nằm trong tay người Pháp; với VNCH thì
quyền lực thực sự do người Mỹ quyết định). Những đặc điểm trên thỏa mãn hoàn
toàn những đặc trưng của "ngụy quyền" là thể chế với quyền lực chính
trị không chính thống hay giả tạo mà tôi khái quát ở trên.
Ở Việt Nam từ năm 1945 chỉ có duy nhất một
chính phủ hợp hiến là Chính phủ VNDCCH được thành lập bằng cách mạng vũ trang
có sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, do những người Cộng sản (Việt
Minh) lãnh đạo, đánh đổ chế độ áp bức, bóc lột của nước ngoài. Nước VNDCCH sau
khi thống nhất đất nước (tháng Tư năm 1975) đổi tên thành Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, tồn tại đến ngày nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét