Đấu tranh pháp lý về Biển Đông tại Liên hợp quốc
bắt nguồn từ việc Malaysia gửi lên Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) Báo cáo
ranh giới thềm lục địa mở rộng tại khu vực phía Bắc Biển Đông ngày 12/12/2019.
Ngay trong ngày, Trung Quốc gửi Công hàm số CML/14/2019 tới TTK LHQ phản bác
Báo cáo này của Malaysia. Tại Công hàm này, Trung Quốc cho rằng: Trung Quốc có
chủ quyền đối với bốn nhóm đảo là Hoàng Sa, Trường Sa (của Việt Nam), Trung Sa,
Đông Sa (gọi chung là Nam Hải chư đảo); Trung Quốc có các vùng biển (nội thuỷ,
lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) từ các nhóm
thực thể và Trung Quốc có quyền lịch sử ở Biển Đông.
Đến ngày 6/3/2020, Philippines gửi lên TTK LHQ
Công hàm số 000191-2020 phản đối Công hàm số CML/14/2019 của Trung Quốc,
Philippines tuyên bố các yêu sách của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc
tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS); Công hàm
số 000192-2020 của Philippines đưa ý kiến về Báo cáo của Malaysia.
Ngày 23/3/2020, Trung Quốc gửi Công hàm
CML/11/2020 lên TTK LHQ để phản bác các Công hàm của Philippines. Trong Công
hàm này, Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa (của Việt Nam), bãi
Scarborough (mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham) và các vùng biển lân cận; yêu
sách quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan cũng như
vùng đáy biển và vùng đất dưới đáy biển. Trung Quốc cũng tiếp tục nhắc lại yêu
sách quyền lịch sử ở Biển Đông.
Trong bối cảnh đó, ngày 30/3/2020, Việt Nam gửi
Công hàm số 22/HC-2020 lên TTK LHQ để phản bác hai Công hàm CML/14/2019 và
CM/11/2020 của Trung Quốc. Tiếp tục ngày 10/4/2020, Việt Nam gửi hai Công hàm số
24/HC-2020 và 25/HC-2020 lên TTK LHQ lần lượt nêu ý kiến về báo cáo của
Malaysia và về các công hàm của Philippines.
Đến ngày 17/4/2020, Trung Quốc cũng đã gửi
Công hàm số CML/42/2020 phản bác lại công hàm của Việt Nam.
Nhưng Trung Quốc phân tích phản bác “rất yếu”
Công hàm số 22/HC-2020 của Việt Nam bởi vì Văn thư này đã trình bày một cách hệ
thống và đầy đủ các quan điểm của Việt Nam về các vấn đề pháp lý chính ở Biển
Đông.
Vậy, Nội dung Công hàm số 22/HC-2020 của Việt
Nam đã nói gì? Xin thưa, chỉ trong phạm vi một trang giấy, Công hàm số 22 đã
trình bày quan điểm của Việt Nam về ba vấn đề quan trọng:
1) Các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông;
2) Yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa;
3) Việc áp dụng công ước UNCLOS 1982 ở Biển
Đông.
Các quan điểm này cần được hiểu đầy đủ và đúng
đắn trong mối liên hệ với các công hàm của các nước và cuộc đấu tranh chính trị-ngoại
giao, pháp lý và quản lý thực tế trên thực địa ở Biển Đông. Cụ thể:
1). Việt Nam phản đối yêu sách của Trung Quốc,
các yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của Việt Nam tại Biển Đông.
Sau khi có Phán quyết của Toà Trọng tài trong
vụ kiện Biển Đông (12/7/2016), Trung Quốc đã có dấu hiệu thúc đẩy yêu sách mới,
tạm gọi là yêu sách “Tứ Sa” nhằm thay thế yêu sách “đường chín đoạn” mà Toà đã
bác bỏ. Bước điều chỉnh này xuất hiện ngay trong Tuyên bố của Bộ Ngoại giao
Trung Quốc cùng ngày Toà đưa ra Phán quyết và Sách trắng “Trung Quốc kiên trì giải
quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines thông qua đàm phán” của Quốc Vụ
viện Trung Quốc (13/7/2016, một ngày sau Phán quyết), trong đó lần đầu tiên
Trung Quốc đề cập tới lập trường về “Nam Hải Chư Đảo” (các đảo ở Biển Đông).
Dư luận bắt đầu quan tâm đến thuật ngữ “Tứ Sa”
sau khi báo chí Mỹ cảnh báo về việc ông Mã Tân Dân (Phó vụ trưởng Vụ Luật pháp
quốc tế, Bộ Ngoại giao Trung Quốc) đề cập tới yêu sách này trong Đối thoại biển
thường niên giữa Mỹ - Trung Quốc tại Boston (Mỹ) vào tháng 8/2017. Đây là lần đầu
tiên Trung Quốc đưa ra lập trường mới này trong một trao đổi đối ngoại. Công
hàm CML/14/2019 ngày 12/12/2019 là lần đầu tiên Trung Quốc đưa công khai và đầy
đủ lập trường liên quan đến Nam Hải Chư đảo ở Liên hợp quốc.
Yêu sách “Tứ Sa”, lập trường mới sau Phán quyết
của Trung Quốc ở Biển Đông có những điểm đáng chú ý sau: Trung Quốc yêu sách chủ
quyền đối với bốn nhóm đảo gồm Đông Sa (Pratas), Tây Sa (Hoàng Sa thuộc chủ quyền
của Việt Nam), Nam Sa (Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam) và Trung Sa (bãi
ngầm Macclesfields, đây là một bãi ngầm hoàn toàn nằm dưới nước ngay cả khi triều
xuống thấp). Trung Quốc gọi bốn nhóm quần đảo này là Nam Hải Chư đảo; Trung Quốc
yêu sách đầy đủ các vùng biển: nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa từ các nhóm quần đảo này; Trung Quốc yêu sách quyền lịch
sử ở Biển Đông.
Bên cạnh lập trường chính thức nêu trên về
“Nam Hải chư đảo”, Trung Quốc còn có 2 yêu sách: với các bãi ngầm và các cấu
trúc lúc chìm lúc nổi ở Trường Sa, Macclefields bank, thậm chí với những bãi ngầm
nằm hoàn toàn trong thềm lục địa phía Nam của Việt Nam như Bãi Tư Chính; xác lập
đường cơ sở bao quanh các nhóm quần đảo để từ đó yêu sách đầy đủ các vùng biển,
bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ “đường cơ sở quần đảo” như
một quốc gia quần đảo. Trung Quốc từng có “tiền lệ” xác lập đường cơ sở thẳng
quanh các nhóm đảo nằm xa lục địa của Trung Quốc như Hoàng Sa (của Việt Nam)
vào năm 1996 hay nhóm đảo Senkaku (mà Nhật Bản khẳng định chủ quyền) vào năm
2012. Năm 2011, Trung Quốc tuyên bố Trường Sa có đầy đủ lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa.
Yêu sách “Tứ Sa” được đánh giá là nguy hiểm vì
kéo theo nhiều hệ luỵ nghiêm trọng hơn yêu sách đường chín đoạn. Tuy nhiên, giống
như “đường chín đoạn”, “Tứ Sa” cũng không phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc
Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với các bãi ngầm ở Biển Đông, quy thuộc thành
quần đảo, từ đó xác lập đầy đủ các vùng biển bao quanh là hoàn toàn trái với
UNCLOS 1982. Theo quy định, các bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không
phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ, không có vùng biển riêng.
Bên cạnh đó, ý đồ xác lập đường cơ sở thẳng
quanh các nhóm đảo của Trung Quốc cũng hoàn toàn không có cơ sở. Điều 46 - 47
UNCLOS chỉ được áp dụng với trường hợp quốc gia quần đảo, trong khi Trung Quốc
là một quốc gia lục địa. Hơn nữa, Trung Quốc hoàn toàn không được phép xác lập
hệ thống đường cơ sở đối với các thực thể thuộc chủ quyền của quốc gia khác.
Đây là sự vi phạm chủ quyền của quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS
1982. Nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế đánh giá “Tứ Sa” là chiến thuật
pháp lý mới của Trung Quốc bằng việc cố gắng sử dụng ngôn ngữ của UNCLOS 1982 để
hợp thức hoá các yêu sách trên biển nhưng với cách thức áp dụng lập lờ, có lựa
chọn theo hướng có lợi cho Trung Quốc. “Đường chín đoạn” hay “Tứ Sa” đều là những
yêu sách không có cơ sở pháp lý và thể hiện tham vọng bành trướng trên Biển
Đông của Trung Quốc. Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối
với Hoàng Sa và Trường Sa cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt
Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với quy định của UNCLOS 1982.
2). Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ
sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với
quy định của Luật pháp quốc tế.
Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyền đối
với Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là lập trường nhất quán đã được Việt Nam khẳng định
trong các Sách trắng về Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trong các năm 1975, 1979, 1981, 1988. Lập trường này cũng được thể hiện
nhiều lần trong các văn bản lưu hành tại Liên hợp quốc và các đệ trình, tuyên bố
gửi các cơ quan quốc tế liên quan. Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và
cơ sở pháp lý chứng minh Việt Nam là quốc gia đầu tiên làm chủ thực sự, chiếm hữu
đầy đủ, hoà bình, liên tục đối với Hoàng Sa và Trường Sa kể từ khi hai quần đảo
này khi chưa quốc gia nào yêu sách. Bên cạnh đó, nhiều văn kiện lịch sử và địa
lý của Trung Quốc cũng chứng minh cho đến đầu thế kỷ XX, các nhà nước phong kiến
Trung Quốc chưa bao giờ có yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều bản đồ do Phương Tây vẽ đều thể hiện đảo Hải Nam là điểm cực nam của
Trung Quốc. Hơn nữa, cộng đồng quốc tế đã chỉ ra nhiều điểm thiếu thuyết phục
và phản bác các bằng chứng lịch sử mà Trung Quốc đưa ra khi yêu sách chủ quyền
đối với hai quần đảo này.
3). Công ước UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý duy
nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa
Việt Nam và Trung Quốc.
Kể từ khi chính thức có hiệu lực vào năm 1994,
UNCLOS 1982 luôn khẳng định vai trò của “Hiến pháp của biển và đại dương” điều
chỉnh mọi vấn đề liên quan đến luật biển. Với 168 thành viên tham gia, UNCLOS
1982 là điều ước quốc tế phổ cập lớn thứ hai, chỉ xếp sau Hiến chương Liên hợp
quốc năm 1945, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo trật tự pháp lý trên
biển. Công hàm ngày 30/3/2020 cho thấy Việt Nam đã dựa vào UNCLOS 1982 để xác lập
các vùng biển, đồng thời cho thấy Việt Nam ủng hộ cách tiếp cận của Toà Trọng
tài trong vụ kiện Biển Đông ở các nội dung quan trọng sau:
Một, “vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121
của Công ước.” Theo Điều 121, đảo đá không thích hợp cho con người sinh sống hoặc
cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa. Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông lần đầu tiên giải thích Điều 121 và
đi đến kết luận rằng tất cả các cấu trúc nổi nào ở Trường Sa không có khả năng
cho con người sinh sống hoặc duy trì đời sống kinh tế riêng, do đó, không thể
có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Hai, “các nhóm đảo tại Biển Đông (bao gồm
Hoàng Sa và Trường Sa) không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm
ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất”. Hoàng Sa và Trường Sa không phải là quốc
gia quần đảo để được áp dụng cách vẽ đường cơ sở quần đảo theo UNCLOS, do đó
không thể xác lập hệ thống đường cơ sở quần đảo bằng cách vẽ nối liền các điểm
ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất. Tinh thần này đã từng được Việt Nam khẳng
định trong Tuyên bố phản đối hệ thống đường cơ sở thẳng của Trung Quốc đối với
Hoàng Sa năm 1996. Toà Trọng tài trong Vụ kiện Biển Đông kết luận rằng bất cứ
cách vẽ đường cơ sở thẳng nào ở Trường Sa cũng trái với Công ước UNCLOS. Trên
thực tế, cấu trúc địa lý của Hoàng Sa và Trường Sa có những điểm tương đồng, do
đó, việc Việt Nam áp dụng cách tiếp cận của Toà Trọng tài đối với các thực thể ở
Hoàng Sa là phù hợp.
Ba, “các bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi
không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng”. Hiện
nay, Trung Quốc yêu sách chủ quyền với một số bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm
lúc nổi ở Biển Đông. Như đã trình bày ở trên, điều này hoàn toàn không được
UNCLOS 1982 cho phép vì theo quy định, các bãi ngầm hoặc các cấu trúc lúc chìm
lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ, không có vùng biển riêng.
Phán quyết của Toà Trọng tài 2016 cũng kết luận rằng các thực thể như Vành Khăn
(Mischief reef), Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), Xubi (Subi reef), Nam Gaven
(Gaven reef/South), Tư Nghĩa (Hughes reef) là các cấu trúc lúc chìm lúc nổi
không phải là đối tượng thụ đắc, không có vùng biển riêng.
Bốn, “Việt Nam phản đối các yêu sách ở Biển
Đông vượt quá những giới hạn quy định tại Công ước, trong đó có yêu sách quyền
lịch sử; các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý.” Việt Nam đã nhiều lần
khẳng định lập trường này. Ngày 12/9/2019, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt
Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “UNCLOS năm 1982 đã xác định rõ phạm vi và là
cơ sở pháp lý duy nhất để các quốc gia xác định quyền hưởng các vùng biển của
mình. Điều này đã được các quốc gia tuân thủ, thừa nhận bởi các thực tế xét xử
cũng như sự đồng tình rộng rãi của các luật sư có uy tín quốc tế. Do đó, không
có nước nào có thể đưa ra các yêu sách về các vùng biển ở khu vực Biển Đông vượt
quá những giới hạn về mặt địa lý và nội dung được quy định trong UNCLOS năm
1982... Những yêu sách bất hợp pháp, không phù hợp với UNCLOS năm 1982 không thể
là cơ sở để khẳng định rằng có tồn tại các vùng biển tranh chấp hay chồng lấn.”
Về điểm này, Công hàm của Việt Nam đã phản ánh
tinh thần của Phán quyết của Toà Trọng tài năm 2016. Theo kết luận của Toà, yêu
sách về quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên sinh vật và phi
sinh vật nằm trong đường chín đoạn là không phù hợp với quy định của Công ước.
Toà cho rằng yêu sách đó vượt quá giới hạn vùng biển của Trung Quốc mà UNCLOS
cho phép. Trên thực tế, yêu sách quyền lịch sử trong đường chín đoạn của Trung
Quốc đã bị cộng đồng quốc tế lên án. Gần đây, ngày 9/4/2020, Bộ Ngoại giao Mỹ
đưa ra tuyên bố phản đối các yêu sách trên biển bất hợp pháp của Trung Quốc ở
Biển Đông và khẳng định ủng hộ kết luận của Toà Trọng tài rằng “Đường chín đoạn
của Trung Quốc là yêu sách biển bất hợp pháp”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét