Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2020

Vì sao phải đến ngày 30-4-1975 Việt Nam mới có được sự thống nhất đất nước (kỳ 1)

Trong lịch sử Việt Nam hiện đại từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 đến nay, chỉ có chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà sau này là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chính thể duy nhất do toàn dân Việt Nam xây dựng lên. Chính thể ấy là kết quả của cuộc cách mạng toàn dân tộc lật đổ ách thống trị của thực dân, đế quốc và bè lũ Việt gian tay sai của chúng.
Chính thể ấy ra đời từ một cuộc cách mạng giải phóng giống như Cách mạng Mỹ 1776, Cách mạng Pháp 1789, Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 chứ không phải nhờ đến một thế lực ngoại bang nào ban cho nền độc lập, tự chủ hay một thế lực “bề trên” ban cho tự do, dân chủ, bình đẳng… Và chính thể ấy luôn hàng động vì quyền lợi của toàn thể dân tộc Việt Nam chứ không vì bất cứ một cá nhân nào, phe phái nào.
Còn những chính thể khác trên lãnh thổ Việt Nam sau năm 1945 đều được nước ngoài tạo dựng và giật dây để phục vụ cho lợi ích của đế quốc, thực dân, của ngoại bang xâm lược. Có thể kể ra đây Quốc gia Việt nam (do Pháp dựng lên năm 1949), Việt Nam Cộng hòa (do Mỹ dựng lên năm 1955) cho đến các chính phủ bù nhìn lưu vong mà mới đây nhất có cái gọi là “Chính phủ lâm thời đệ tam Việt Nam cộng hòa” do Đào Minh Quân cầm đầu ở Mỹ được CIA dựng lên và là một tổ chức khủng bố.
Ngày thống nhất non sông 30-4-1975 đã khẳng định một điều: Không có chuyện miền Bắc chiến thắng miền Nam mà chỉ có chiến thắng của dân tộc Việt Nam trước đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước. Bởi vì đã từ năm 1945 và từ rất lâu trước đó, “Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn. Song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Thế nhưng có một bộ phận người Việt Nam lại không học được chân lý ấy. Có những kẻ học theo cách hành xử của các “quân tử Tàu”, thích cát cứ phong kiến, thích làm vua một vùng, thích… đủ thứ ! Có những kẻ học đòi phong cách lãng tử Pháp đem sở thích cá nhân đặt lên trên sự bình đẳng về quyền lợi của đồng loại. Và cũng có cả những kẻ học đòi thói “cowboy” Bắc Mỹ và cho đó là thứ tự do nhất trần đời, tự do bắn giết, tự do làm đĩ và tự do xâm phạm quyền tự do của người khác, của dân tộc khác.
Chính vì thói vọng ngoại đế dị hợm như vậy mà trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX, những kẻ “chống Cộng đến cùng” đã có ít nhất ba lần quay lưng lại với cơ hội thống nhất đất nước và hòa hợp dân tộc. Chúng đã bất chấp việc những người Cộng sản Việt Nam đã chìa bàn tay đề nghị hợp tác, cùng nhau hành động vì mục tiêu chung của cả dân tộc là độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc để phục vụ ngoại bang, vứt bỏ quyền lợi của nhân dân chỉ vì bản thân chúng.
1- Lần thứ nhất: Nói đến chống Pháp, kẻ nào cũng to mồm nhưng đều vô dụng.
Cách mạng tháng Tám do Đảng Cộng sản Đông dương đứng ra tổ chức, hiệu triệu toàn dân Việt Nam vùng lên đánh cho Pháp chạy, đánh cho Nhật hàng để thành lập một chính quyền của riêng người Việt nam, đứng ra đó tiếp quân đồng minh vào giải giới quân Nhật bại trận. Ở thời điểm đó, nhiều quốc gia phải nhờ đến lực lượng quân sự hùng mạnh của các đồng minh chống phát xít như Liên Xô, Mỹ, Anh và cả Pháp nữa mới làm được điều đó. Còn người Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương thì đã đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Lẽ ra trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa ngày 6-1-1945, những người Cộng sản Việt Nam hoàn toàn có đủ uy tín và sức mạnh để có vị trí xứng đáng trong một chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên của đất nước. Thế nhưng những thế lực cơ hội chính trị bám gót ngoại bang đã núp bóng sức mạnh quân sự của ngoại bang để lớn tiếng đòi cho chúng có những vị trí trong Quốc hội mặc dù chúng không hề có một chút mảy may đóng góp vào cuộc Cách mạng Thánh Tám giành chính quyền về tay Nhân Nân Việt Nam.
Đó là Đại Việt quốc dân đảng (thường gọi là “đảng Đại Việt”) theo chủ thuyết “dân tộc sinh tồn”, hực chất là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi do Trương Tử Anh cầm đầu. Dưới sự bảo trợ của OSS (tiền thân của CIA), tổ chức này theo gót quân Anh-Pháp, mượn danh nghĩa giải giới quân phát xít Nhật vào chiếm đóng miền Nam Việt Nam (phía Nam vĩ tuyến 16). Đây là tổ chức chống Cộng phản động nhất ở Việt Nam khi đó và là mầm mống sinh ra quái thai “Chủ nghĩa quốc gia” của chính quyền ngụy Sài Gòn sau này.
Đó là Việt Nam cách mệnh đồng minh hội (thường gọi là “Việt cách”) cũng là một tổ chúc bám gót quân Quốc dân Đảng Trung Hoa do “thầy bói” Nguyễn Hải Thần (tên thật là Võ Hải Thu cùng các bí danh khác là “Nguyễn Cẩm Giang” và “Nguyễn Bá Tú”) cầm đầu. Đó là tổ chức cơ hội chính trị nhân Cách mạng tháng Tám thắng lợi để “tranh phần công lao” và chống đối cả Pháp lẫn Việt Minh như “Đảng Dân Xã” của Huỳnh Phú Sổ và Nguyễn Bảo Toàn (tức Nguyễn Hoàn Bích) cầm đầu ở Nam Bộ. Đó là Việt Nam Quốc dân đảng (thường gọi là “Việt Quốc”), vốn tập hợp những phần tử suy thoái chính trị sau khi khởi nghĩa Yên Bái bị thực dân Pháp đàn áp chạy sang Trung Quốc nương nhờ quân Quốc dân Đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch, nay theo quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân phát xít Nhật, phục vụ chính sách “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch.
Trong điều kiện chính quyền cách mạng còn dang trong thời kỳ “trứng nước” lại phải đối phó với giặc ngoài từ nhiều phía cũng như sự phân rã chính trị trong nội bộ đất nước, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất chỉ là để “không tham gia chính trường về danh nghĩa”, chỉ để lại “Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác” làm tổ chức hoạt động công khai trong khi Mặt trận Việt Minh vẫn thay mặt Đảng hoạt động công khai.
Mặt trân Việt Minh đã có một bước nhượng bộ rất lớn khi tuyên bó “nhường” cho Việt Quốc, Đại Việt và Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử (được coi như đại biểu đương nhiên). Đó là lần đầu tiên, những người Cộng sản Việt nam chìa bàn tay hợp tác với các lực lượng đối lập sau Cách mạng Tháng Tám-1945 với niềm tin và hy vọng rằng các đối tác sẽ chung tay xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân để đấu tranh vì nền độc lập của Tổ Quốc.
Tuy nhiên, niềm tin ấy đã bị phản bội. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tái xâm lược Nam Bộ, các đối tác của Mặt trận Việt Mình đã không hề có một tiếng nói ủng hộ cuộc kháng chiến vừa bùng nổ mà chỉ nhăm nhăm lo cho quyền lợi của mình khi cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên sắp diễn ra. Và sau khi Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa vì muốn giảm bớt xung đột ở Nam Bộ, chọn con đường đàm phán để cứu vãn hòa bình bằng Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1945 thì cả Việt Quốc, Việt Cách lẫn Đại Việt đều lớn tiếng buộc tội Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “bán nước”; trong khi chúng không hề đóng góp một phần dù là hết sức nhỏ vào công cuộc gìn giữ nền độc lập bằng biện pháp ngoại giao.
Nguyễn Hải Thần đã từ bỏ công vụ và trốn sang trung Quốc. Cố vấn Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại) cũng trốn tránh trách nhiệm và chọn cách tạm lưu vong ở Hồng Công (Trung Quốc). Ghê gớm hơn nữa, Trương Tử Anh cùng bè đảng Đại Việt còn móc nối với thực dân Pháp âm mưu dàn dựng một vụ ném lựu đạn vào lính Pháp duyệt binh mừng Quốc khánh Pháp (14-7-1946) để quân Pháp lấy cớ làm cuộc “chính biến” lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bắt giam Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn bộ phái đoàn Việt Nam đang đàm phán ở Hội nghị Fontelnebleaut. Nếu không có sự quyết tâm của Phó Chủ tịch chính phủ Huỳnh Thúc Kháng, sự tinh tường của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp và sự mưu trí của các chiến sĩ an ninh Việt Nam khi phá vụ án Ôn Như Hầu ngày 12-7-1946 thì Cách mạng Việt Nam có lẽ đã diễn biến theo một chiều hướng bi đát hơn rất nhiều.
Sau vụ này, thực dân Pháp cũng lờ tịt đi chuyện “xin phép diễu binh”. Còn phía Việt Minh thì thừa hiểu tai sao lại như vậy. Và cũng là dễ hiểu khi Phan Huy Quát, một trong các “lãnh tụ có máu mặt” của Đại Việt quốc dân đảng đã công khai đứng về phía thực dân Pháp và năm 1949, y được giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng trong chính quyền bù nhìn của Bảo Đại. Đến năm 1965, Phan Huy Quát còn làm Thủ tướng trong cái gọi là “Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa” ở Sài Gòn sau khi Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị đế quốc Mỹ “thí ngựa giữa dòng”.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là đây là lần đầu tiên, các thế lực cơ hội chính trị đội lốt chủ nghĩa dân tộc đã chối bỏ sự hợp tác với những người Cộng sản Việt nam để bảo vệ nền độc lập mà Dân tộc Việt Nam phải tốn biết bao xương máy sau gần 100 năm mới giành lại được. Sự ích kỷ hẹp hòi của họ đã đi ngược lại quyền lợi của dân tộc, quay lưng lại với đồng bào mình để bắt tay với đế quốc thực dân, mong cầu một quyền lợi ích kỷ cho bản thân và nhóm cơ hội chính trị của mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét